Chương 4 :

Thời kỳ ḍ dẫm và củng cố
(1985-1992)

Trước năm 1975, La San có khoảng 200 đệ tử từ lớp 6 đến lớp 12, được phân ra 4 nơi : để tử ngoại trú ở Taberd (lớp 6 và lớp 7), đệ tử nội trú ở Thủ Đức (lớp 8 và lớp 9), đệ tử nội trú ở Nha Trang (lớp 10 đến lớp 12)  - có một thời đệ tử Ban Mê Thuột. Tất cả các nhà nầy giải thể từ năm 1975. Khoảng 10 em c̣n trở lại Thủ Đức gặp Frère Colomban Đào ở nhà Đệ tử cũ, Thủ Đức. Nhưng đến năm 1978, lại bị giải thể lần nữa, các sư huynh đi học tập và nhà bị tịch thu. Vài em đệ tử thỉnh thoảng có đến gặp sư huynh Giám Tỉnh để biết đướng hướng của Tỉnh Ḍng, nhưng được trả lời : « Ở nhà cho đến khi có lệnh mới ». Và chờ đợi lệnh mới không thấy, nên kẻ trước người sau đă chọn hướng khác. Tương lai của Tỉnh Ḍng tùy thuộc vào việc tuyển mộ ơn gọi mới. Nhưng câu trả lời phủ định đó chính là nguồn của một sự gián đoạn rất dài, đưa Tỉnh Ḍng La San ngày càng đi sâu vào ngơ cụt.  Phải chăng chính v́ « chúng ta biết rất rơ rằng những nguyên do làm giảm ơn gọi ngày nay có nhiều lư do : suy tàn của ư thức đời tu ; nhà nước độc quyền làm công việc mà ngày trước do các nhà Ḍng đảm trách ; vai tṛ của người giáo dân được tăng lên ; không thích sống độc thân ; gia đ́nh ít con...v..v.. » [1]. Hoặc, thực sự từ tận đáy ḷng, tôi thấy « không hứng thú lắm để mời gọi những người trẻ theo chúng ta bởi v́ chính chúng ta ở trong t́nh trạng mập mờ về vai tṛ của chúng ta ngày hôm nay » [2] và v́ vậy mà « tôi cho người trẻ, một cách trực tiếp hay gián tiếp, cái cảm giác là tôi không thoải mái trong ơn gọi của chúng ta, hụt hẩng, xôn xao, sợ hăi hay nản ḷng ». Thế th́ làm sao chúng ta có thể « chờ đợi người trẻ theo bước chúng ta » như Futrel đă viết : « nếu các tu sĩ, sống chung với nhau mà chắc chắn đau khổ, chống đối, ít tha thứ..v..v.., th́ nhóm nầy sẽ không lôi kéo được một ai… »[3].

Nhà Đệ tử đóng cửa, Tập Viện đóng cửa, có nghĩa là hết các sư huynh trẻ. Sư huynh Giám Tỉnh chờ đợi « thời cơ thuận lợi ». Nói một cách khác, trước sự đóng cửa một số cộng đoàn và « phương tiện ưu việt » nầy là nhà trường, th́ sư huynh Giám Tỉnh không biết giải thích thế nào với các bạn trẻ nầy và làm thế nào để các sư huynh sống 3 chiều kích ơn gọi, những nét đặc thù của ơn gọi La San. Phải ḍ dẫm thôi.

1- Tập Viện

Sau gần mười năm do dự và chờ đợi, số những người rời Ḍng đă ngưng[4] và cửa « Nhà Tập » lại bắt đầu mở ra đón 2 tập sinh đầu tiên ở Nha Trang vào năm 1985. Nhưng rồi cả 2 em nầy cũng không phục vụ tại Việt Nam : một người sát nhập vào một cộng đoàn La San bên Mỹ và một người hồi tục. Ba người khác khởi sự « Nhà Tập » năm 1986 ở Saigon. Cụm từ « Nhà Tập » được đặt trong hai dấu móc để muốn nói rằng « nhà Tập » lúc đó  không hợp lệ theo luật Giáo Hội. Hai Tập Sinh ở Nha Trang không sống trong một Nhà Tập truyền thống, nhưng ở với các sư huynh trong một cộng đoàn mà Bề Trên là cựu Bề Trên Nhà Tập. Ba em Tập Sinh ở Saigon th́ sống với gia đ́nh, một người th́ hàng ngày vẫn đi làm nơi công sở, hai anh kia th́ tiếp tục đi học Đại học, chiều về đến gặp sư huynh Giám Tỉnh để học hỏi về Ḍng….Vào một buổi họp Hội Đồng Cố Vấn, các sư huynh đặt lại vấn đề « làm nhà Tập » của các Tập sinh như hiện thời và đề nghị t́m một phương pháp hữu hiệu cho Nhà Tập và cho Học Viện tiếp theo sau đó, không ít th́ nhiều hợp pháp theo luật Giáo Hội và luật Ḍng. Thế nhưng, các sư huynh Cố Vấn nhận được câu trả lời nầy của sư huynh Giám Tỉnh : « tôi lănh trách nhiệm về việc nầy và tôi nhận hết hậu quả của quyết định nầy ». Một câu trả lời độc đoán biểu lộ một sự do dự của việc ḍ dẫm, phát xuất từ nơi sâu thẩm của con người. Nhưng cũng may, vào năm sau, một Nhà Tập đúng nghĩa được thành lập tại Tân Cang, cách Saigon 50 cây số, với 2 Tập Sinh đầu tiên và đồng thời một Học Viện được mở ra tại Cộng đoàn La San Taberd với 3 em vừa xong « Nhà Tập ». Bề Trên Học Viện nầy là sư huynh Casimir Phan Văn Chức, người đă có ư muốn chuyển sang linh mục nhưng không thành.

Nhà Tập Tân Cang nằm trên lô đất 4 mẩu. Trước kia, các sư huynh đă mua lô đất nầy là 31 mẫu trong chương tŕnh tiến tới tự túc của Tỉnh Ḍng. Sau 1975, sư huynh Giám Tỉnh « hiến » cho nhà nước 27 mẫu cho “người nghèo”,  dĩ nhiên qua nhà nước. Không ai biết được những mẫu đất nầy có tới tay người nghèo lúc đó thực không. Nhưng hiện nay th́ thấy là các phật tử quản lư và họ c̣n đến thương lượng muốn mua phần c̣n lại của La San nữa.

Đời sống các sư huynh Tập sinh ở đó phải nói là rất kham khổ. Tất cả đều cư ngụ trong những ngôi nhà lá, phải trồng lúa và rau quả để sinh sống, mong ước làm sao có thể tự túc tài chánh. Thế nhưng mùa gặt nào cũng không được tốt. Không có nguồn lợi, sư huynh Giám Tỉnh phải trợ cấp hàng tháng để giúp họ vượt qua khó khăn.

Nhà tranh th́ dĩ nhiên không được bao nhiêu năm. Người trẻ chung quanh cũng dần dần biết đến các sư huynh. Rồi chúng cũng  « đến và xem ». Một tia sáng bắt đầu lóe lên. Giai đoạn ḍ dẫm nhường chỗ cho giai đoạn củng cố. Một dăy nhà trệt có h́nh L và một nhà nguyện nhỏ được mọc lên vào năm 1987 do sư huynh Giám Tỉnh mới, sư huynh Maurice Nguyễn Phú Triều. Mười năm sau, một dăy nhà khác nữa mọc lên làm thành chữ U, kế hoạch tổng thể ban đầu đă thành h́nh. Vị Giám Tập và các vị huấn luyện cũng ổn định, chương tŕnh cũng đă được thiết lập. Ngôi Nhà Tập nhỏ bé của Tỉnh Ḍng La San Việt-Nam đă có chỗ đứng. Mỗi năm, Nhà Tập nhận 5 hay 6 Tập Sinh. Một con số khiêm tốn đối với các nhà Ḍng khác nhưng cũng là một khích lệ lớn cho anh em La San trong hoàn cảnh xă hội hôm nay.

2- Thời kỳ đổi mới

1986 : Đại hội Đảng lần thứ 6, phổ biến phong trào « Đổi Mới »

1987 : các khách du lịch đầu tiên đến Việt-

1991 : bang giao lại với Mỹ. B́nh thường quan hệ với Trung Quốc

Sau phong trào « Đổi Mới » của năm 1986 nầy, đến việc bỏ cấm vận của Mỹ (1994) và vào ASEAN, những nhà đầu tư ngoại quốc , nhất là những « con rồng » Châu Á, đổ xô vào Việt-Nam, bởi v́ tất cả đều phải xây dựng lại. Saigon cũ và Chợ Lớn lúc nào cũng là đi hàng đầu. Một tỉ lệ phát triển 14,5% vào năm 1994 thay v́ 8,5% đến 8,8% trung b́nh của cả nước (Theo báo Le Monde ngày 21/1/1996). Thật vậy, triển vọng các nhà cao tầng sẽ mọc lên nhanh chóng ở thành phố nầy kể từ khúc quanh nầy của lịch sử.

Với sự « Đổi Mới », và chế độ cũng mở ra một cách thận trọng và một cách từ từ, th́ người dân không c̣n trả giá bằng mạng sống của ḿnh mà vượt biên nữa. Người Việt-Nam có đức tính đó, có thể làm việc cực khổ, sống thiếu thốn, nhưng có chút tự do là được. Điều đó như có trong máu người Việt, tức là cũng kể cả các sư huynh. V́ vậy, đời sống của các sư huynh cũng bắt đầu lật sang trang, như bao nhiêu người dân khác và các sư huynh cũng thừa dịp nầy để lấy lại vài hoạt động trước kia : dạy học, dạy giáo lư, lo cho giới trẻ….Đặt giới hạn « thời kỳ dọ dẫm và củng cố từ năm 1985 đến năm 1992 không có nghĩa là các sư huynh đă ngừng hết mọi công tác trong thời gian trước. Ngược lại, qua câu trả lời của sư huynh Hoàng Thái, cũng là tâm tư của nhiều sư huynh khác, trong thời gian « chờ đợi thời cơ thuận lợi » : « Sư huynh có đi t́m một việc ǵ khác để làm nhằm mục đích ḍ dẫm cách nào để thực hiện mơ ước của sư huynh không ?  »

« HT (Sư huynh Hoàng Thái): Khi có ít việc trong xí nghiệp, tôi dấn thân vào những công tác khác mà tôi nghĩ là thuận lợi và phù hợp với mục tiêu của Ḍng như : dạy giáo lư trong họ đạo, tập hát cho ca đoàn, dạy phụ đạo cho các em nghèo trong xóm»[5].

Hoặc câu trả lời của sư huynh Diệp Tuấn Đức[6] rơ ràng hơn « chờ đợi một cách nhẫn nại một thời cơ thuận lợi để lấy lại nghề giáo dục »[7]

« Khi bước vào một môi trường xă hội, sống giữa những người mà ḿnh không quen biết và đồng thời là người cộng sản, tôi  sống ở đó vừa quan sát những người chung quanh vừa cố gắng sống làm gương tốt và đồng thời giúp người dân nâng cao tŕnh độ kiến thức ». [8]

Hoặc câu trả lời của sư huynh Guillaume Nguyễn Phú Khai :

« Tôi t́m sống ơn gọi của ḿnh bằng cách hợp tác với nhà thờ họ dạy giáo lư, giúp trẻ mồ côi trong một nhà chùa »[9].

Mỗi sư huynh đi t́m một công việc riêng, một cách riêng để sống ơn gọi của ḿnh, mỗi người kéo đi một hướng, chẳng cần sự đồng ư của sư huynh Giám Tỉnh… T́nh trạng cũng dễ hiểu v́ không có định hướng nào chung của Tỉnh Ḍng. Những sáng kiến thật sự không có ǵ xấu, và ngược lại rất tốt nữa nhưng « vá víu » [10] như sư huynh Guillaume đă nói. Bây giờ phải bỏ hết chăng ? Chắc chắn là không. Một giải pháp êm dịu được áp dụng là « hợp thức hóa  từ phía sư huynh Giám Tỉnh hay của cộng đoàn » để nói rằng ư kiến cá nhân đó biến đổi thành ư kiến của cộng đoàn. Người đi thực hiện công tác đó coi như là được cộng đoàn sai đi và dĩ nhiên có những lúc nào đó, chia sẻ với cộng đoàn. Sự kiện nầy xảy đến vào cuối những năm 1980.

Sau đây là lănh vực hoạt động của các sư huynh trong thời kỳ ḍ dẫm trên b́nh diện Tỉnh Ḍng :

1- dạy đạo và sư phạm giáo lư

Luật Ḍng có ghi : “ Các sư huynh tham gia vào Mục vụ Giáo Hội địa phương như dạy giáo lư, đào tạo giáo lư viên hay linh hoạt viên cho những ki-tô-hữu được mời gọi vào công tác dạy giáo lư ”[11].

Hơn bao giờ hết, các sư huynh tuân giữ điều nầy của Luật Ḍng. Trước kia, từ sáng đến chiều bận công việc của nhà trường, các sư huynh cộng tác với giáo xứ một cách khác bằng việc dạy giáo lư ngay trong nhà trường : chuẩn bị cho các em rước lễ vở ḷng, chịu phép Thân sức, chuẩn bị cho các chầu nhưng chịu phép Rửa tội… Nhưng đến sau 1975, « phương tiện ưu việt » nầy là nhà trường không c̣n nữa và nhà nước chỉ cho phép dạy đạo trong khuôn viên nhà thờ. Trong các giáo xứ đều có tổ chức các lớp giáo lư và các linh mục Chánh xứ kêu mời các tu sĩ nam nữ, quư bà mẹ những người trẻ hay những người trưởng thành cộng tác vào sứ vụ nầy. Đáp lại lời kêu gọi khẩn cấp đó, nhiều sư huynh ghi danh để làm thành viên của nhóm giáo lư họ đạo. Thế nhưng có rất nhiều người trẻ đầy thiện chí, nhưng họ lại thiếu đào tạo về tín lư và sư phạm, và các sư huynh có sàng kiến tổ chức những khóa ngắn hạn về sư phạm giáo lư để lắp đầy lỗ hỏng đó. Nhiều khóa sư phạm được tổ chức và mỗi khóa như vậy có từ 200 đến 300 học viên. V́ người giáo lư viên cũng cần biết vẽ, trang trí …. Các sư huynh cũng mở ra những lớp trang trí để bồi dưỡng vào tạo phương tiện cho các giáo lư viên . Rất đông học viên ghi danh tham dự các lớp đó, kể cả tu sĩ các Ḍng, điều đó chứng tỏ các sư huynh đáp đúng nhu cầu thực sự. Trong lănh vực nầy, chúng ta không thể quên ơn những người tiên phong, đó là sư huynh Casimir Phan Văn Chức và sư huynh Aloysius Đổ Văn Liên (Luy Minh). Để biết được công lao của các ngài lớn lao chừng nào và thấy v́ lửa nhiệt thành và óc sáng tạo thúc đẩy, các ngài đă lấy hết sức can đảm và táo bạo để tổ chức các khóa nầy v́ thời đó, tập họp trên 10 người là phải xin phép chánh quyền địa phương.  Rồi t́m đâu ra pḥng ốc mà chứa một số lượng người đông như thế ? Tài liệu cung cấp cho học viên cũng không thể kiếm dễ dàng như ngày hôm nay, nhưng cũng may, nhờ có các tiệm photocopy khắp nơi sẵn sàng hỗ trợ…. Hai sư huynh nầy không thể tiếp tục công việc của ḿnh lâu dài v́ tuổi đă cao. Sư huynh Chức th́ nghĩ hưu tại La San Mai Thôn và phải ngồi xe lăn. Frère Luy Minh cũng bị tai biến và ngồi xe lăn. Một điều các sư huynh tiếc nuối là không có người để tiếp tục công tŕnh của các ngài bị dang dở. Nhưng thật ra, nhiều sư huynh trẻ cũng đă có tham dự các khóa sư phạm đó và bây giờ vẫn dấn thân tiếp tục công việc của các ngài những bằng một cách khác. Các sư huynh được các cha xứ mời đến các họ đạo để tổ chức các khóa sư phạm giáo lư ngắn hạn cho các anh chị giáo lư viên trong các kỳ hè. Và liên tiếp trong 4 năm liền, cũng vào dịp hè, các sư huynh cũng tổ chức trong ṿng 1 tuần, một khóa sư phạm giáo lư cho khoảng 40 anh chị giáo lư viên, đến từ Cà Mau, Cần Thơ. Một cách nào đó, có thể nói được là, hai sư huynh đi trước đă ḍ dẫm để t́m lại được một con đường và các sư huynh trẻ làm cho nó nổi bật rơ ràng lên.

Song song với các lớp sư phạm giáo lư, sư huynh Vital Nguyễn hữu Quang cũng đă lấy sáng kiến, cùng với các Sơ và các linh mục có khả năng, tổ chức những khóa hè cho các tu sĩ nam nữ trong suốt tháng 7. Sáng kiến nầy được nhân lên và hoàn chỉnh một ngày một hơn, dẫn đến việc thành lập một Học Viện Liên Ḍng nữ c̣n tiếp tục hoạt động và thu hút được rất nhiều nhà Ḍng theo học cho đến ngày hôm nay.

2- khóa ngoại ngữ

Từ năm 1975, như những người dân có điều kiện sống khiêm tốn, tất cả các sư huynh c̣n sức khỏe tốt, đều phải đi làm kiếm tiền để sống : làm rẩy, làm đồ thủ công mỹ nghệ, chăn nuôi, trồng nấm, nuôi ong… Nhưng là một cựu giáo viên, thành ra nghề dạy kèm là phù hợp nhất. Một điểm bất lợi là không có một tổ chức chung cho nên mỗi người tự tổ chức lấy và tự thu tiền và tự xài theo ư ḿnh, chỉ đóng góp vừa đủ tiền ăn cho cộng đoàn. Có một vài anh em không đủ tháo vát v́ nhiều lư do, không kiếm đủ tiền để nộp cho cộng đoàn, làm họ phải rất băn khoăn, lo lắng khi gần hết tháng. Nhưng cũng có một số  anh em khác, tuy không nhiều, nhưng tháo vát (hoặc gặp may) kiếm tiền rất dễ dàng để có thể sống khá dễ dàng. Dù trong trường  hợp nào với thời gian th́ tinh thần « thu gom » để « dự pḥng » cho tương lai cũng phát sinh và bám chặt vào con người, và đúng là ngược lại với tinh thần của Luật Ḍng : « Các sư huynh sống đơn sơ như người có mức sống trung b́nh, mọi của cải đều để chung »[12]. Sư huynh Giám tỉnh[13] (Sư huynh Maurice Triều) cũng muốn tập họp các sư huynh có khả năng lại để tổ chức thành lớp « Sinh Ngữ La San » và sư huynh Lê Thành Tốt được đề cử phụ trách các lớp nầy. Tuy nhiên chỉ có sư huynh Léon Dũng và sư huynh Siméon Tùng tham gia các lớp nầy và được tổ chức một cách có cơ cấu từ năm 1995, khi ông Hiếu đề nghị hợp tác để mở thành Trung Tâm mang tên Trung Tâm Ngoại Ngữ Nguyễn Trường Tộ. Trung Tâm càng ngày càng khẳng định chỗ đứng của ḿnh và vẫn hoạt động cho đến ngày hôm nay. Nhiều lớp dạy phụ đạo cũng được mở ra về toán, khoa học, tập cho các em bé « viết chữ đẹp ». Những lớp đó được tổ chức rải rác đó đây, cũng được hợp thức hóa, coi như là những công tác mà cộng đoàn sai người anh em đó ra đi. Cũng nên nhắc lại rằng, tuy những lớp nầy lúc trước được tổ chức với tính cách cá nhân, mỗi người tự ấn định học phí, nhưng có một điểm chung là giá cả học phí thấp, các học viên đó tùy theo khả năng tài chánh của gia đ́nh và không phân biệt tôn giáo hay thành phần xă hội nào. Nét độc đáo của sứ mạng La San vẫn được duy tŕ trong mọi hoàn cảnh xă hội.

3- phong trào giới trẻ

Trong tất cả các trường học các sư huynh ngày xưa trước năm 1975 « mỗi sáng Chúa Nhật, một số các sư huynh trẻ nơi Học Viện t́nh nguyện ghi danh đến Taberd, Chánh Hưng, Thạnh Mỹ để sinh hoạt giới trẻ… »[14] : Hùng Tâm Dũng Chí, Thanh Sinh Công (JEC), Công giáo Tiến Hành…. Đôi khi các sư huynh cũng tham gia vào các công tác xă hội như thăm viếng các tù nhân, những người tị nạn thời chiến, nhiều lúc ngủ lại trong trại với họ vài ngày để sinh hoạt với các bé, hớt tóc, phát thuốc. Năm nào cũng vậy, Lễ Trung Thu, Tết Nguyên Đán, Lễ Noel… được tổ chức quy mô nhất là cho các em tiểu học...

Hầu hết các sinh hoạt nầy tạm ngừng tổ chức quy mô trong khoảng 10 năm sau 1975. Nhưng cảm thấy nhu cầu đồng hành với người trẻ, sư huynh Vital Quang tập họp một nhóm các bạn trẻ, mỗi tuần một lần trong khuôn viên cộng đoàn La San Taberd để giúp chúng về nhân bản, một ít về triết học, phương pháp cầu nguyện… Nhóm nầy có tên là Miguel, tổ chức đều đặn lễ thánh Gioan La San vào ngày 15 tháng 5. Người đến tham dự lễ nầy càng ngày càng đông. Đến năm 1987, sư huynh Giám Tỉnh Maurice Triều đă nhận ư kiến nầy và coi ngày lễ nầy như là « Ngày Truyền Thống La San ». Kể từ năm đó, Tỉnh Ḍng lănh trách nhiệm tổ chức « Ngày Truyền Thống » nầy và tiếp tục cho đến ngày hôm nay.

Cũng tại Taberd mà phong trào Thanh Sinh Công (JEC) được hồi sinh nhờ sáng kiến của sư huynh Bonaventure Nghĩa[15], cũng là thành viên của cộng đoàn La San Taberd. Lúc đầu chỉ có vài em đến với ngài, đơn giản là muốn hỏi về những ǵ liên quan đến cuộc sống, đến ư nghĩa của cuộc sống, hoặc t́m hiểu các giao tiếp trong cuộc sống sao cho có nhân bản hơn…. Từ sự kiện đó ngài thầm hỏi « Tại sao ḿnh  không tái lập phong trào TSC để giúp đỡ các em nầy ? » Và thế là phong trào mở mắt chào đời và dần dần lớn lên và « tách tổ » mới là TSC Đức Minh. Đến năm 2000, sư huynh Nghĩa được chuyển đổi ra Nha Trang và TSC Taberd được giao lại cho một sư huynh khác. V́ không đồng quan điểm nên TSC Taberd đă « ly dị » với các sư huynh Taberd và đi t́m một nơi khác để sinh hoạt. Nhưng TSC Taberd có kẻ nối dơi là TSC Đức Minh.

Là giáo viên trong nhà trường của nhà nước, nhưng sư huynh Nghĩa lúc nào cũng suy tư làm sao để giúp các bạn đồng nghiệp công giáo. Sau một thời gian suy nghĩ lâu dài, sư huynh Nghĩa đă tụ họp lần đầu tiên được khoảng 70 giáo viên công giáo hiệp dâng Thánh Lễ đầu năm học để cầu nguyện cho chính họ, cho gia đ́nh họ, cho các học sinh để chúng trải qua một năm học an b́nh và thành công tốt đẹp. Nhưng sáng kiến nầy tồn tại không được nhiều năm.

۩ ۩ ۩ ۩ ۩

Phải thành thật nh́n nhận khó t́m được các sư huynh linh hoạt vừa hăng say vừa gan ĺ, vừa kiên nhẫn vừa có một sự quyết tâm cứng rắn, như các sư huynh vừa nêu lên. V́ rằng khi đă quyết tâm làm như thế, họ chấp nhận trước những khó khăn có thể xảy đến với họ từ mọi phía, ở bên ngoài và cả trong cộng đoàn. Thực tế, có những người chờ đợi thời cơ, phải chắc chắn rồi mới làm, nên rất dửng dưng và hơn nữa rất sợ « liên lụy » khi có những phiền phức xảy đến.

Trường tiểu học Xóm Huế

Một cách âm thầm và từ từ, các sư huynh đi vào lănh vực giáo dục nơi nhà trường qua trường tiểu học nhỏ bé mang tên « Xóm Huế ».

Vị trí : Cách Saigon khoảng 50 cây số về hướng Đồng Nai, một xóm nhỏ gồm  khoảng 30 gia đ́nh từ miền Trung đến định cư tại đó từ năm 1968, cho nên có tên là xóm Huế, chuyên sống bằng nghề trồng khoai ḿ nên kinh tế cũng không dồi dào. V́ trường học hơi xa, khoảng từ 3 đến 4 cây số nên có khoảng 100 trẻ em c̣n đang tuổi đi học, nhưng không bao giờ đến trường và thực sự là v́ không có tiền. Phụ huynh th́ hàng ngày phải lo kiếm cái ăn nên cũng không mấy quan tâm về việc học hành của con cái. Nhờ có các em sinh viên đến t́m hiểu đời tu La San, các sư huynh gởi các em nầy vô xóm Huế để dạy giáo lư mỗi tuần một lần và tổ chức sinh hoạt cho các em thiếu nhi. Và cứ 2 lần một năm, vào dịp Noel và trung thu, các em sinh viên cũng đến phát quà, tổ chức múa lân cho các em.

Thế rồi, một người cựu học sinh của các sư huynh ngoài Huế có một ư tưởng làm một cái ǵ đó cho các em kém may mắn nầy trong lănh vực giáo dục. Thấy ư tưởng hay hay nên có một người cho 100m2 đất, người khác cho cây tre, cho tranh lợp nhà… người khác th́ giúp công, mỗi người tùy theo khả năng : thợ mộc, thợ nề… Qua tài khéo léo ngọai giao của các sư huynh, một ân nhân khác cho bàn học, gỗ để làm cửa… V́ vậy mà vào năm 1982, một căn nhà tranh vách đất 3m50 x 8m00 đă được dựng lên làm lớp học. Một công tŕnh mang ư nghĩa liên kết của rất nhiều người. 

12 năm sau, năm 1994, ngôi nhà tranh vách đất không thể kéo dài hơn nữa và nhờ sự trợ giúp của hội ANAI, của Ủy Ban tương trợ quốc gia và nhờ vào sự trợ giúp của các bạn bè thân hữu, nhà trường đă nhận được 20 000 quan Pháp để hoàn chỉnh dự án. Sư huynh Dosithée Nguyễn Đề Nghị được trao phó thực hiện dự án. Ngài thuộc ban quản trị nhà trường và rất được ban giáo viên và chánh quyền địa phương tín nhiệm. Ngài cũng được phép xây dựng một nguyện đường nhỏ mang tên là « Nguyện Đường Thánh Giuse ».

Sư huynh Nghị giữ chức vụ nầy trong 10 năm và ngài nghĩ rằng khó có người thay thế v́ chính ngài giữ quỹ của ân nhân để chi trả lương cho giáo viên. Thế nhưng ngày đó cũng đă đến. Ngày mà chánh quyền báo là người ta không c̣n cần ngài nữa, đó là vào năm 2002. Đây cũng là một cú sốc cho sư huynh, v́ sư huynh đă đặt hết thời gian và tâm hồn của ḿnh để lo cho các em kém may mắn nơi xóm Huế nầy. Dù ǵ đi nữa, sư huynh Nghị đă rất thành công khi xây được một nhà nguyện nơi đó để người dân có thể đến một cách công khai đọc kinh hay dâng Thánh Lễ. Có thể nói được đây là một thành công qúy giá nhất[16].

Một vài sinh hoạt khác được lấy lại có hiệu chỉnh cho phù hợp với hoàn cảnh hôm nay :

- Linh hoạt các nhóm trẻ ;

- Tập hát cho các em mù, tập vơ cho các em câm điếc , thăm viếng các em bị Sida ;

- Tổ chức « Ngày Thiếu Nhi » do các em Tập Sinh và các sư huynh trẻ Học Viện đảm trách ;

- dạy hè miễn phí do các em Thỉnh sinh tổ chức ;

- tổ chức đi thăm các ông bà lăo neo đơn, trại cùi, trẻ mồ côi …

4- Dạy nghề

Tôi không dạy học từ nằm 1976. Để có tiền sống, tôi cũng phải làm đủ nghề v́ không có chuyên môn : thủ công mỹ nghệ, sơn mành trúc trong một hợp tác xă, nuôi gà, làm nấm rơm, làm trong công trường xây dựng, chụp h́nh dạo… Trên mức độ nào đó, tôi hiểu được sự cực khổ và giá trị của sự làm việc. Nhất là trong những năm tôi làm việc trong công trường và làm thợ chụp h́nh dạo, tôi gặp được nhiều, rất nhiều trẻ lang thang đang tuổi đi học, nhưng chưa bao giờ đặt chân đến trường, mà phải « đi làm » để kiếm sống. Điều nầy làm tôi suy nghĩ  và một chút tia sáng lóe lên: « Ḿnh phải làm một cái ǵ cho chúng» và có thể đó là một cách mà tôi sống ơn gọi của tôi trong hoàn cảnh xă hội hôm nay…

Tôi chia sẻ ư tưởng của tôi với vài anh em khác và thế là vào năm 1989, với sự hợp tác của 2 sư huynh khác, cựu giáo viên trường Kỹ Thuật La San[17] chuyên về cơ khí và mộc, một lớp dạy nghề được mở ra một cách « kín đáo » tại cộng đoàn La San Đức Minh. Lớp nầy được 15 em nghèo, do các linh mục và các Sơ hay những người quen biết gởi đến. Về trang thiết bị, tôi dùng hết số tiền dành dụm để bắt đầu từ zéro, lên một « xưởng » thực hành nhỏ bé. Từ từ, với sự trợ giúp của các ân nhân, bạn hữu trong và ngoài nước, mà lớp xưởng thực hành có nhiều trang thiết bị đầy đủ và lớp học tuy có nhiều khó khăn, nhưng ngày càng phát triển cho đến ngày hôm nay. Sau đây là tiến tŕnh của « đời sống » lớp dạy nghề với những thăng trầm của nó.

Lời của Khổng Tử (thế kỷ thứ 4e-3e trước Công Nguyên) làm tôi tâm đắc và trở thành câu châm ngôn của lớp dạy nghề :

"Nếu con cho một người một con cá, họ sẽ được nuôi dưỡng một lần.
Nếu con dạy cho họ đi đánh cá, họ sẽ được nuôi sống cả đời."

Giai đoạn thứ nhất : Những lớp dạy nghề được khai giảng vào cuối những năm 80 nhằm mục đích cho các em có hoàn cảnh khó khăn có được một nghề trong tay và đồng thời giúp chúng có một lương tâm nghề nghiệp. Trong những năm đầu, có 4 nghề : sửa xe gắn máy, tiện, điện gia dụng và ống nước. V́ trong thời gian thử nghiệm, không có phép, nên mỗi lần học sinh vào lớp th́ cửa đóng lại. Các lớp nầy hoạt động được hai năm. Đến cuối năm 1991, nhân viên thuế vụ đến và yêu cầu phải có giấy phép để hoạt động. Anh cũng gợi ư là nên t́m một cơ quan có sẵn để xin làm vệ tinh. Thế là các lớp dạy nghề tạm đóng cửa để t́m phương cách, chờ đợi giấy phép chính thức.

 Giai đoạn thứ hai : Sau một thời gian t́m ṭi, Cơ sở Dạy Nghề Đức Minh cũng được phép mở cửa lại một cách chính thức, dưới danh nghĩa là một vệ tinh của Trung Tâm Dạy Nghề Q.3. Trong thời kỳ hồi sinh nầy, Đức Minh chỉ có 2 nghề là sửa chữa xe gắn máy và Vi tính. Hai năm sau, vào tháng 6 năm 1994, hai ban nữa được thành lập, đó là ban mộc và điêu khắc gỗ. Một năm sau, vào tháng tư năm 1995, một nghề nữa được khai trương : làm các tượng bằng thạch cao. Sau khi tốt nghiệp, các học viên có thể về quê hành nghề hay t́m một cơ sở tư nhân để làm việc. Những em nào không t́m được việc, có thể ở lại làm việc tại cơ sở.

Các lớp dạy nghề đặc biệt dành cho các em có hoàn cảnh khó khăn, nên các em đường phố, những em khuyết tật… được theo học hoàn toàn miễn phí. Các sư huynh và giáo viên cố gắng giúp các em có tay nghề giỏi và đồng thời tạo một bầu khí gia đ́nh và huynh đệ mà các em nầy rất cần.

Các lớp vi tính th́ có thu tiền, nhưng học phí hạ hơn so với các trung tâm khác. Những ai có hoàn cảnh khó khăn, vẫn có giảm hay miễn tùy theo trường hợp.

Học viên đến rất đông, chứng tỏ các lớp nầy đáp ứng nhu cầu xă hội hôm nay. Lớp vẫn hoạt động b́nh thường, không có ǵ đáng nói cho đến ngày J, ngày mà Trung Tâm Dạy Nghề Q.3 không nhận Đức Minh làm vệ tinh nữa. Bắt đầu giai đoạn thứ ba, sẽ được đề cập trong Phần thứ 3. Thông thường, khi bước từ giai đoạn nầy sang giai đoạn khác, như trường hợp của Cơ Sở Dạy Nghề Đức Minh, một sự đau đớn nào đó sẽ dẫn đến một kết quả tốt hơn mà chúng ta không hề tính trước.

5- Chân trời mới : tiếp cận vi tính

Một hạt cải được gieo xuống đất

Trong kỳ hè 1988, một phụ huynh học sinh mang đến cộng đoàn La San Đức Minh một máy vi tính nhỏ và nhờ sư huynh Philipphê Lộc nghiên cứu để dạy lại cho con của ông sử dụng . Sau một vài tuần t́m ṭi nghiên cứu, sư huynh khám phá ra sức mạnh tuyệt vời của máy vi tính. V́ vậy sư huynh Lộc chia sẻ với anh em và đề nghị anh em nhờ một người cựu học sinh La San đến để hướng dẫn cho các sư huynh trong lănh vực mới nầy. 8 sư huynh cộng đoàn Đức Minh và Taberd đă theo học khóa nầy. Người hướng dẫn là anh Nguyễn văn Tuấn, cháu của sư huynh Nguyễn văn Linh, hiện nay đă chịu chức linh mục. Khóa đầu tiên làm quen với lănh vực nầy là lập tŕnh bằng « ngôn ngữ Basic ».

Vài tháng sau, người phụ huynh nầy sang Mỹ định cư. Sư huynh Lộc xin sư huynh Giám Tỉnh mua lại máy đó với giá là 100USD. Nhưng phụ huynh nầy biếu lại các sư huynh để mua sách vở cần thiết trong lúc ban đầu. Kể từ sự kiện đó, sư huynh Giám Tỉnh Triều khuyến khích chúng tôi lên kế hoạch để may ra có thể xin các sư huynh ở hải ngoại giúp đỡ.

Vào năm 1987, sư huynh Humbert Vũ Văn Cương[18] từ Pháp trở về Việt Nam lần đầu tiên kể từ năm 1975. Sư huynh Humbert nói đùa rằng : « Tôi làm vật tế thần để trở về dọn đường cho các anh em khác » (sư huynh qua đời ngày 05/11/1998 v́ bệnh tim, hưởng thọ 75 tuổi, tại nhà thương Bichat, Paris). Quả vậy, vào ngày 22 thánh 5 năm 1989, người thứ hai trở về cũng từ Pháp, mang theo một máy vi tính XT, màn h́nh màu EGA và một máy in 24 kim LQ-500 mà ngài đă dùng khi đi tu nghiệp bên Pháp. Vào thời đó máy vi tính c̣n ít, nên máy nầy rất hiện đại, tuy ngày nay th́ đă thành đồ cổ.

Những ngày đầu học Vi tính

Sau khi cài đặt các thiết bị, sư huynh Paul truyền đạt cho chúng tôi vài khái niệm về vi tính bằng các « biểu diễn » cho chúng tôi xem một vài khả năng của máy tính để làm cho chúng tôi xác tin sức mạnh tuyệt vời của nó. Khóa học đầu tiên nầy có mặt đủ mọi thành phần và mọi lứa tuổi, kể cả sư huynh Giám Tỉnh Triều cũng tham dự. Cho dù tất cả các sư huynh nầy không tiếp tục đi xa, nhưng dù sao nhờ khóa học đầu tiên nầy, họ cũng có thể được mở mắt ra nh́n thấy chân trời mới. Đây là một hy sinh lớn lao của sư huynh Lê Cừ v́ trong thời gian 3 tuần về thăm quê hương, sư huynh đă dành trọn cho các sư huynh Việt Nam ham học, mà không có thời gian thăm gia đ́nh mặc dù thời gian vắng mặt quá lâu.  Anh em La San Việt-Nam luôn ghi nhớ và tri ân sư huynh đă « phá ngu » cho anh em trong lănh vực nầy.

Một giai đoạn mới bắt đầu sau khi sư huynh Paul về Pháp. Để ngọn lửa nhiệt thành vẫn tiếp tục cháy sáng và cháy mạnh lên, các sư huynh mời những giáo sư chuyên về vi tính, đến hướng dẫn các sư huynh về MS-DOS, FOX BASE, DBASE 4, ASSEMBLER, ngôn ngữ C và C++, sửa chữa máy tính…Để giảm chi phí, chúng tôi cũng có mời người ngoài tham dự. Mỗi khóa trung b́nh từ 20-30 học viên, nhưng chỉ có mỗi một máy vi tính duy nhất để thực hành. Thành thử ra phải phân chia giờ thực tập từ 7g00 sáng đến 22g00, có khi kéo dài hơn. (Photo, p. 240).

Nhận thấy được sự cần thiết và sự bành trướng càng ngày càng nhanh của vi tính, sư huynh Giám Tỉnh đă cho mua thêm 2 máy XT và 2 máy in FX-1050 vào tháng 12 năm 1989.

Hạt cải nẩy mầm

Sau một năm miệt mài làm việc, nghiên cứu, các sư huynh tiên phong nắm vững những nguyên lư căn bản. Người trẻ cũng muốn học nên chạy đến các sư huynh. Và những khóa học vi tính đầu tiên được mở ra và dĩ nhiên chưa xin phép. Vào mùa hè năm 1990, 2 khóa đặc biệt mở ra dành cho các sư huynh gồm có các môn : MS-DOS, SIDEKICK, VNI, NORTON, PCTOOLS, MS-WORD. Trong thời gian nầy, sư huynh Giám Tỉnh với sự hỗ trợ của anh Nguyễn Hoàng Đông và một cựu học sinh Đức Minh đă mua một máy vi tính mới AT-286 với ổ dĩa cứng là 40MB.

Hạt cải lớn lên

Mỗi năm vào mùa hè, các tu sĩ nam nữ trên cả nước qui tụ về Saigon để bồi dưỡng nhiều ngành khác nhau : thần học, sư phạm, giáo lư…Lợi dụng dịp nầy, sư huynh Vital Quang đă giới thiệu cho các học viên sức mạnh và lợi ích của vi tính … và hứa sẽ có một khóa hướng dẫn sử dụng một ngày không xa. Một nhóm rất đông đáp lại lời mọi gọi nầy. Đó là vào năm 1992. Hạt cải đă từ từ lớn lên.

Nhờ vào sự trợ giúp của Ḍng và của anh em Việt-Nam ở hải ngoại, pḥng vi tính được trang bị khá đầy đủ (vào thời đó) với : máy mới AT-386, máy quét h́nh, máy in Laser IIIP… Người trẻ đến thụ giáo càng ngày càng đông. Các linh mục tu sĩ đến từ khắp đất nước để học hỏi cái nghề mới nầy. Và nhà nước cũng đến hỏi giấy phép. Chúng tôi phải tạm ngưng để xin phép và trở thành một vệ tinh của Trung Tâm Dạy Nghề Q. 3, như đă đề cập ở trên.

Nhờ vậy mà Đức Minh đă có thể ra khỏi đường hầm và từ từ, từng bước một, củng cố công tŕnh vừa hé mở mà không biết trước được sẽ đi đến đâu.

Công việc được thực hiện trong thời kỳ ḍ dẫm nầy 

-       Nhờ máy vi tính, Tỉnh Ḍng cũng thực hiện được vài công việc nhỏ nhỏ qua việc đưa đến quư sư huynh vài tài liệu của Tỉnh Ḍng và của Giáo hội, đặc biệt sách kinh riêng cho Ḍng La San là quyển sách đầu tiên in trên giấy sáp (stencils) có dấu tiếng Việt với chương tŕnh VNI. Sách nầy được xuất bản vào mùa hè 1990.

-       Sư huynh Phan Huy Hà đă dùng FOX PRO để lập tŕnh cho việc bầu chọn sư huynh Giám Tỉnh của Tỉnh Công Hội thứ 7 vào năm 1991.

-       Dần dần các tài liệu khác của Ḍng (Thư Mục Vụ, Thư Luân Lưu) cũng được thực hiện sau khi đă chuyển sang Việt ngữ như : cùng chung và liên kết, Gia Đ́nh La San, Đời sống Cộng đoàn, Sự Biến đổi….

-       Vào cuối năm 1992, Luật Ḍng cũng được xuất bản dưới dạng song ngữ (Pháp-Việt), được dàn trang bằng VENTURA PUBLISHER  PROFESSIONAL, rất phổ biến thời bấy giờ.

-       Pḥng Vi tính giúp đỡ đều đặn Văn Pḥng Giám Tỉnh in ra những thông tin để gởi cho tất cả các sư huynh hoặc cho những nơi cần thiết.

-       Hướng dẫn sử dụng máy vi tính cho nhiều nhà Ḍng từ Bắc chí Nam.

-       Mục tiêu của trung tâm : t́m việc làm cho các học viên sau khi đào tạo. Một số đông trong các học viên có được một chỗ làm tốt. Đặc biệt quư nam nữ tu sĩ, các linh mục có được một phương tiện rất hiệu quả để phục vụ nhà Ḍng, giáo xứ …  

6- Ổn định các cộng đoàn

Như chúng ta đă đề cập, biến cố năm 1975 đă gieo một sự chao đảo tinh thần, tạo nên một sự phân tán và sự mất mát lớn nơi Ḍng La San. Luật Ḍng và cả Luật Giáo hội dường như không được coi trọng, không c̣n giá trị dưới hoàn cảnh hiện tại. Ví dụ, tất cả những người đă khấn trọn (kể cả khấn tạm) khi muốn rời Ḍng, phải xin chuẩn lời khấn trước khi ra Ḍng. Nhưng v́ hoàn cảnh xă hội, có nhiều trường hợp « không nhớ » sự bó buộc nầy… Tinh thần cộng đoàn, sự đóng góp của cải… cũng phải nói là xuống cấp khá trầm trọng. Ông bà thường nói : « C̣n người c̣n của ! ». Thật vậy sự mất mát về của cải vật chất, người ta có thể kiếm lại được do những cố gắng của ḿnh, nhưng mất mát về nhân sự và về tinh thần th́ không dễ ǵ lấy lại một khi t́nh trạng đó kéo dài. Đó là trường hợp Tỉnh Ḍng La San Việt Nam.

- Một cộng đoàn có nhiều bếp ăn. Điều nầy cũng có thể hiểu theo nghĩa đen lẫn nghĩa bóng. « Đối với các sư huynh, Cộng đoàn là một tổ ấm. Các sư huynh sống chung với nhau. Các sư huynh đổi mới mỗi ngày kinh nghiệm về t́nh bạn, về t́nh thương […], các sư huynh yêu thích chia sẻ những bữa ăn với nhau, những giờ giải trí và  những công việc phục vụ khác mà đời sống chung cần » [19].

Sự thật thực tế được biểu lộ cho thấy có ước muốn tách rời từ từ cuộc sống của anh em. Trong một cộng đoàn 12 người vào những năm 80 mà có đến 3 bếp nấu ăn riêng. Một lư do nêu lên là do chế độ ăn kiêng. Một lư do khác là vấn đề tiền bạc : không t́m đủ tiền để đóng tiền ăn cho cộng đoàn. Một trường hợp khác khá đặc biệt : đóng đúng tiền ăn. Tới giờ, lấy đồ ăn đem vô pḥng ăn một ḿnh. Trong khi vào thời đó, dường như giờ ăn là giờ phút duy nhất để anh em gặp nhau trong ngày. Dĩ nhiên, có những lư do cá nhân để biện minh cho hành động của ḿnh. Nhưng thực tế cho thấy, không sớm th́ muộn, đến một ngày nào đó, họ từ giă cộng đoàn măi măi. Vấn đề nầy h́nh như không bao giờ được đề cập đến v́ những lư do đưa ra để biện minh cho lối sống của ḿnh có vẻ đúng. Nhưng dù sao, theo lời khuyến dụ của sư huynh Giám Tỉnh Maurice Triều, với một sự can đảm phải nói là vượt bực, sự quay lại nầy nhằm giữ đúng Luật Ḍng câu 54.

- Trở về đời sống cộng đoàn. Đời sống cộng đoàn là một trong 3 chiều kích của đời tu La San. V́ nhiều lư do khác nhau, một số khá đông các sư huynh sống ngoài cộng đoàn với sự đồng ư của sư huynh Giám Tỉnh như được giải thích trong Luật Ḍng như sau : «  Các sư huynh chu toàn bổn phận là thường xuyên sống trong cộng đoàn thường xuyên và chỉ vắng mặt khi có phép của sư huynh Bề Trên hay sư huynh Giám Tỉnh. Để có thể vắng mặt dài hạn, các sư huynh tuân theo luật của giáo hội »[20]. Hoàn cảnh các cộng đoàn ở Việt-Nam trong những năm sau 1975 là một trường hợp đặc biệt. Không liên lạc với bên ngoài một cách dễ dàng và v́ vậy mà sư huynh Giám Tỉnh được phép từ Bề Trên Tổng Quyền có thể giải quyết tất cả, đặc biệt về phép vắng mặt, người th́ 3 năm, người khác kéo dài đến 10 năm hoặc để giúp gia đ́nh về kinh tế, hoặc để « giữ » tài sản cho gia đ́nh, hoặc đơn giản là chờ đợi ngày thuận lợi để xuất ngoại chính thức hay bán chính thức. Và phải thành thật mà nói rằng có người cũng chẳng xin phép ai.

Kế hoạch b́nh thường hóa các trường hợp nầy được bắt đầu từ những năm 80. Trước hết, những sư huynh gọi là « vắng mặt » phải « liên kết » với một cộng đoàn truyền thống gần nhất. Các sư huynh đó tùy thuộc sự sắp xếp của Bề Trên cộng đoàn những vấn đề liên quan đến kinh nguyện, giờ ăn… theo sự thống nhất với Bề Trên. Đó là giai đoạn thứ nhất. Tiếp đến giai đoạn thứ hai : các sư huynh « vắng mặt » c̣n sống rải rác ở gia đ́nh tại Saigon hay vùng ven tập họp thành một cộng đoàn mang tên là : « Cộng đoàn Đường mới » (hay Cộng đoàn diasapora). Cộng đoàn nầy từ từ bị giải thể cho đến năm 1987 th́ ổng định. Người th́ trở về cộng đoàn truyền thống, người th́ trở về gia đ́nh, người th́ đi xuất ngoại. Từng trường hợp được giải quyết lần lượt như thế. Một trường hợp đặc biệt được giải quyết nhẹ nhàng. Sư huynh Philiphê Lộc, rời khỏi cộng đoàn Taberd năm 1976, về Long Khánh làm rẩy với gia đ́nh v́ có một sự hiểu lầm giữa ngài và sư huynh Giám Tỉnh. V́ vậy mà mọi liên lạc với nhà Ḍng bị cắt đứt giữa ngài và nhà Ḍng trong suốt 11 năm. Vào cuối năm 1987, một nhóm 8 sư huynh trên 4 chiếc xe Honda lên Long Khánh, vào tận rẫy thăm ngài đang cùng với các em ngài canh tác cà-phê, rau cải. Một cuộc thăm viếng thật tế nhị, hoàn toàn huynh đệ không đề cập ǵ đến việc ngài vắng mặt và cũng không đề nghị trở về cộng đoàn. Một năm sau, đúng hơn là 6 tháng sau, vào mùa hè 1988, ngài trở về Saigon và đến gặp tôi, ngỏ ư xin trở lại sống với các sư huynh trong cộng đoàn La San Đức Minh, sau 12 năm « lang thang ». Ngài qua đời vào tháng 2 năm 2006 và chôn tại nghĩa trang La San Mai Thôn. Trên giường bệnh, ngài tâm sự cùng người đang chăm sóc ngài lư do tại sao ngài hiện diện giữa các sư huynh ngày hôm nay là « nhờ cuộc viếng thăm của các sư huynh năm đó » và ngài tâm sự thêm : « có những cử chỉ đến đúng lúc có thể cứu được một con người » .

Hiện nay cũng c̣n vài trường hợp tồn tại từ năm 1975 nhưng chưa thể giải quyết được.

- Tĩnh tâm tháng: Luật Ḍng câu 60 luôn luôn là một ưu tư của các Bề Trên : « Mỗi năm, các sư huynh tham gian Tĩnh Tâm một thời gian đủ để lo việc thiêng liêng […]. Theo định kỳ, các sư huynh cũng có một thời gian Tĩnh Tâm (tháng) trong cùng ư chỉ trên. Các Tỉnh Ḍng và các cộng đoàn sắp xếp tổ chức việc nầy »[21]. Để duy tŕ Tĩnh Tâm năm, sư huynh Giám tỉnh sắp xếp để các sư huynh có thể tham gia hoặc ở Mai Thôn, hoặc ở Taberd. Mỗi năm như thế, sư huynh Giám tỉnh gởi « thông báo » và danh sách các người tham gia Tĩnh Tâm cho chánh quyền địa phương. Và cứ như thế, Tĩnh Tâm năm được tổ chức liên tục cho đến ngày hôm nay. Điều nầy cho thấy những sự thương lượng cần có những tiếp cận tinh tế và đôi khi là những dấu vết của một ǵ đó không thực tế. Văn bản xác định sự việc nhưng những ứng dụng th́ linh động!

Ư thức được sự cần thiết của việc cầu nguyện trong đời sống tu tŕ và qua việc kinh nghiệm tổ chức Tĩnh Tâm năm được duy tŕ và không trở ngại, sư huynh Giám Tỉnh tổ chức tiếp theo Tĩnh Tâm tháng vào Chúa Nhật thứ 4 mỗi tháng từ 18g00 đến 20g00 cho các sư huynh ở Saigon và vùng lân cận. Lúc đầu, các sư huynh tham gia không nhiều. Nhưng từ từ, phần đông các sư huynh đều tham gia. Vào năm 1987, sư huynh Giám Tỉnh Maurice Triều kêu gọi ḷng quảng đại của anh em để tập họp lại một lần nữa vào Chúa Nhật thứ 2 trong tháng, cũng vào giờ đó để « thường huấn ». Những tổ chức nầy được tiếp tục cho đến ngày nay, được xem như là thành công trong chương tŕnh ổn định Tỉnh Ḍng.

- Để mọi sự làm của chung : Đây chính là một vấn đề nan giải khó khắc phục. Cần phải có nhiều bác ái, từ bỏ hoàn toàn và quảng đại để có thể sống điểm nầy của Luật Ḍng : « Các sư huynh tránh thu gom của cải và nhấn mạnh trách nhiệm của ḿnh bằng cách báo cáo việc sử dụng những của cải đó » [22] Làm sao bạn không thu gom khi mà tương lai trước mặt dường như bị bế tắt trong khi mà hiện tại, bạn kiếm được tiền ? Làm sao sống điểm nầy của Luật Ḍng buộc phải « để chung tất cả » khi mà chung quanh tôi, có người dường như  không làm việc và không đóng góp ǵ hết ? Tại sao tôi phải góp chung hết khi tôi phải đổ mồ hôi, sôi nước mắt để kiếm ra tiền ? Tôi sẽ ra sao đây, ai sẽ chăm sóc tôi khi đau yếu, ai sẽ nuôi tôi khi mà tôi không c̣n sức làm việc nữa, Tỉnh Ḍng, cộng đoàn không có khả năng bảo trợ tôi ? Tất cả những câu hỏi tương tự nầy thực sự rất b́nh thường đối với sự lo lắng chung của một con người.

Từ Tỉnh Công Hội năm 1984, Tỉnh Công Hội[23] đầu tiên sau năm 1975, các sư huynh Công Hội Viên đă đặt lại vấn đề để chung của cải như sau :

« Đề nghị 3 : Nhằm đạt tới việc để chung của cải :

a-    Mỗi sư huynh chia sẻ một các rộng răi với các anh em của ḿnh;

b-    Cộng đoàn quan tâm để đáp ứng nhu cầu của anh em trong khả năng của ḿnh (những phương tiện mà cộng đoàn sắp xếp là do anh em đóng góp vào)[24] ».

Cũng vậy, Tỉnh Công Hội năm 1987 lấy lại Đề Nghị 3 ở trên làm Đề Nghị 1 : « Để tiền bạc chung với nhau ». Phê chuẩn của Tỉnh Công Hội năm 1999 chứng tỏ rằng vấn đề « để chung » chưa thực hiện được : « Lịch sử của anh em với tư cách là Tỉnh Ḍng từ năm 1975, dạy cho các anh em rằng việc để chung của cải vẫn luôn là một mối giây liên kết cơ bản của một cộng đoàn tu sĩ ». Thật vậy, Luật Ḍng luôn luôn đúng, nhưng « những tập quán, những qui định về cách ăn nết ở của chúng ta, cái mà chúng ta chọn lựa coi như là thế giới truyền thống và dĩ nhiên những giá trị của chúng ta, đó là những phản hồi của xă hội » và « thực tế của các cộng đoàn có thể luôn luôn xáo trộn tất cả » .

Vấn đề « để chung » được đề cập nhiều lần nhưng không có kết quả bao nhiêu : trong các kỳ Tĩnh Tâm tháng cũng như Tĩnh Tâm năm, cũng như trong các Quyết Định của Tỉnh Công Hội 1987 và 1991. Vấn đề nầy không chỉ đặt ra cho các sư huynh La San có khả năng kiếm nhiều tiền mà thôi, nhưng cũng đặt vấn đề cho những ai không tháo vát để có thể kiếm đủ tiền đóng góp về ăn uống. Những người nầy cảm thấy xấu hổ v́ sự lù khù của ḿnh. Trong hoàn cảnh khó khăn như vậy, một vài người hay lặp đi lặp lại « chỉ có những người có bản lănh mới có thể sống được ». Thực sự việc làm « là và chỉ định một chỗ đứng, một cách để định vị ḿnh trong thế giới » [25]. Nhưng cũng đúng  khi nói rằng những người không đạt tới một sự trưởng thành nào đó trong đời sống (tu tŕ) th́ quên đi « những Kẻ Khác đầu tiên có ư nghĩa » của chúng ta, đó chính là mục tiêu giáo dục là  « có thể sống được với người khác ».

Làm sao giải quyết vấn đề bây giờ ? T́m một công việc nào có thể thu hút để các sư huynh có thể cùng chung làm việc với nhau chăng ? Công việc nào có thể thu hút các sư huynh và khích lệ sự cộng tác của anh em ? Khi anh em đă có « chỗ đứng khá vững trong xă hội », với đồng lương không cao lắm nhưng đủ sống thoải mái, th́ hỏi có mấy ai chịu bỏ công việc của ḿnh đă ổn định để dấn thân vào một việc làm chung cho dù là một công tác giáo dục, nhưng bấp bênh ?

Nhưng, các sư huynh ở cộng đoàn Bá Ninh đă lấy sáng kiến,  từ năm 1985, biết nắm  lấy cơ hội, nên bắt đầu chấp nhận nuôi các em ở nội trú, nhưng đi học bên ngoài. Ngoài giờ đi đến trường, các phụ huynh gởi cho các sư huynh chăm sóc. Một hướng mới được mở ra cho các sư huynh. Thấy mô h́nh nầy hấp dẫn vừa giúp các sư huynh có cơ hội sống sứ mạng của ḿnh vừa có thu nhập cho các sư huynh, các cộng đoàn khác cũng như Đức Minh ở Saigon và Ban Mê Thuột cũng bắt đầu nhận nội trú. V́ cơ sở của cộng đoàn chật hẹp, các sư huynh chưa nghĩ đến vấn đề nầy nên việc tổ chức chưa đạt lắm. Nhưng dần dần các sư huynh cũng cố gắng khắc phục phần nào những khó khăn. Nhu cầu các phụ huynh ở các tỉnh gởi con vào thành phố lớn càng ngày càng nhiều, trở thành như một mốt. Ngày nay, gần như tất cả các cộng đoàn đều có nuôi nội trú với một con số đáng kể : Ban Mê Thuột 250 em, từ cấp 2 đến cấp 3 ; Nha Trang 40 em cấp 2 và 3; Taberd 45 em sinh viên ; Phú Thọ 45 em sinh viên. Một nhà nội trú mới Phú Sơn được khai trương năm nay (1997) với 15 em. (photo, p. 241).

 

[1] John Johnston, TMV 1987, trang 34.

[2] John Johnston, TMV 1987, trang 35

[3] John Johnston, TMV 1987, trang 34

[4] Xem biểu đồ trang 8

[5] Xin xem Phụ Lục từ hàng 115 đến hàng 142

[6] Sư Huynh Diệp Tuấn Đức quê ở Cai Lậy, về quê làm rẫy một thời gian sau 1975.

[7] Xin xem Phụ lục trừ hàng 151 đến hàng 333.

[8] Như trên

[9] Xin xem Phụ lục tư hàng 217 đến hàng 248

[10] Như trên.

[11] Luật Ḍng Anh em Trường Ki-tô, c. 15b.

[12] Luật Ḍng Anh em Trường Ki-tô, c. 32.

[13] Nhiệm kỳ Giám Tỉnh thứ nhất của Sư Huynh Maurice Triều 1987-1991, ngài qua đời trong nhiệm kỳ 2, năm 1992.

[14] Nội san Lien Lac 1972, trang 13.

[15] Sư huynh Nghĩa rất say mê phong trào TSC. Đi đến đâu ngài cũng suy nghĩ cách để thành lập phong trào TSC nơi đó. Vào cuối những năm 80 và đầu những năm 90, Ngài cũng có sáng kiến tập họp các giáo viên công giáo để chia sẻ những kinh nghiệm và những khó khăn và kết thúc bằng một Thánh Lễ.

[16] Năm năm sau, v́ không c̣n học sinh đông đúc (hoặc v́ không có ngân quỹ để trả giáo viên), nhà trường đóng cửa và giao lại cho giáo họ quản lư để tổ chức sinh hoạt của giáo họ.

[17] Trung Tâm Dạy Nghề Đức Minh tri ân hai Huynh tiên phong nầy là Huynh Nguyễn Đề Nghị và Huynh Trần Văn Ba. Lúc đó, Sư huynh Ba đang ở tại Cộng đoàn La San Đức Minh. Sư huynh Nghị đang ở Cộng đoàn La San Tân Cang, mỗi tuần đạp xe xuống Đức Minh dạy 3 ngày rồi về. Một sự cố gắng vượt bậc.

[18] Giáo sư Đại học « Institut Supérieur Agricole de Beauvais », Pháp. (ISAB)

[19] Luật Ḍng Anh em Trường Ki-tô, c. 54.

[20] Luật Ḍng Anh em Trường Ki-tô, c. 55.

[21] Luật Ḍng Anh em Trường Ki-tô, c. 75d.

[22] Luật Ḍng Anh em Trường Ki-tô, c. 35a.

[23] Trước năm 1975, cứ 3 năm 01 lần, có một Tỉnh Công Hội. Tỉnh Công Hội cuối cùng trước khi Giải phóng là vào năm 1974. 10 năm sau mới có một Tỉnh Công hội tiếp theo. Nguyên tắc là sư huynh Giám Tỉnh cũ không c̣n được tái cử v́ đă quá 9 năm. Thế nhưng, ngài vẫn được bầu lại sau nhiều tranh cải. Sau đó, th́ có sự phản đối mạnh của sư huynh Casimir Phan văn Chức bằng văn bản, được gởi đi khắp nơi trong nước và cũng như tới Ṭa Thánh. Một Tỉnh Công Hội bất thường họp lại hai năm sau đó và sư huynh Maurice Triều được chọn làm Giám Tỉnh.

[24] Nghị quyết  3 của Tỉnh Công Hội thứ  5.

[25] PATRICK TAPERNOUX, À propos d’une enquête sur des enseignants français…, page 128