Giáo Hội Thời Trung Cổ
Giáo
Hội Thời Trung Cổ (600 - 1300)
Giai
đoạn bảy trăm năm này của lịch
sử Kitô Giáo được ghi dấu bằng sự
hoán cải của các dân tộc và các bộ lạc.
Đó cũng là thời kỳ xáo trộn chính trị,
và các xung đột xảy ra là để xác
định mối tương giao đúng đắn
giữa Giáo Hội và nhà nước. Ở Tây Phương,
điều này đưa đến sự xuất
hiện "thế giới Kitô Giáo," sự
liên minh giữa Giáo Hội và nhà nước. Thế
giới Kitô Giáo đem lại nhiều kết quả
nhưng cũng tạo nên sự căng thẳng liên
tục giữa các giáo hoàng và hoàng đế, giữa
các vị lănh đạo Giáo Hội và nhà nước.
Ngoài ra c̣n có sự căng thẳng giữa Giáo Hội
Công Giáo La Mă của Tây Phương và Giáo Hội
Chính Thống Giáo Thánh Thiện của Đông Phương.
Các lạc giáo và sự xuyên tạc đức tin
Kitô Giáo chân chính bắt đầu xuất hiện.
Cũng
có những tiến bộ đáng kể trong Kitô
Giáo thời Trung Cổ. Một số các học giả
cũng như thánh nhân Kitô Giáo xuất hiện, và
văn hóa Kitô Giáo đạt đến tầm mức
mới trong lănh vực nghệ thuật, văn
chương, kiến trúc, và thần học. Các
ḍng tu mới cũng phát triển, đem lại
đời sống mới cho Giáo Hội, và các
đan viện cũ được canh tân. Trong thời
kỳ này, có lúc tưởng như Kitô Giáo
đang trên bờ vực thẳm, nhưng ơn Chúa
mạnh mẽ hơn bất cứ t́nh thế nào
đă giúp Giáo Hội vượt qua giai đoạn
đầy hiểm họa và chúc lành cho Giáo Hội
với sự chiến thắng và sự phát triển.
Các thế lực chính trị đă ngăn chặn
công cuộc truyền giáo phát triển ra ngoài ranh
giới của Âu Châu và Byzantine (khu vực phía
đông của Địa Trung Hải), nhưng đó
là thời gian để biến Âu Châu thành một
lục địa Kitô Giáo và để duy tŕ đức
tin ở Đông Phương trước sự tràn
lan của Hồi Giáo.
Sự
sụp đổ của Đế Quốc Rôma cũ
đă không làm nản ḷng
Thánh
Grêgôriô Caû, vị giáo hoàng từ 590 đến
604, là người đặt nền tảng cho Giáo
Hội ở Tây Âu trong thời Trung Cổ. Khi các
nhà cầm quyền thế tục thất bại,
Đức Giáo Hoàng Grêgôriô đă nắm quyền kiểm
soát miền trung nước Ư và đă cứu Rôma
thoát khỏi nhiều cuộc xâm lấn của giặc
Lombard. Ngài gửi các đại diện đến
các giáo hội Tây Phương để khuyến
khích và kiên cường họ trung thành với
đức giáo hoàng. Các văn bản về thần
học và linh đạo của ngài đă hướng
dẫn tư duy thời Trung Cổ. Đức Giáo
Hoàng Grêgôriô I đă đích thân sai một đan
sĩ Biển Đức,
Thánh
Augustine, đến hoán cải người Angle và
người Saxon ở Anh Quốc. Không bao lâu, vua
Aethelbert của xứ Kent đă rửa tội, và
Thánh Augustine được đặt làm giám mục
của Canterbury. Các đan sĩ Ái Nhĩ Lan hoặc
Celtic (Xen-tơ), do các thánh Adian và Cuthbert hướng
dẫn, đă giúp hoán cải toàn thể nước
Anh. Không bao lâu, Anh Quốc đă gửi các nhà truyền
giáo đi khắp Âu Châu, tỉ như một
đan sĩ Ḍng Biển Đức là Willebrord, nổi
tiếng là vị Tông Đồ cho người Ḥa Lan
đă được đặt làm giám mục cho
phần đất này vào năm 695.
Trong
Kitô Giáo Đông Phương, công đồng thứ sáu
được triệu tập ở Constantinople từ
680 đến 681 (Công Đồng Constantinople III). Các
giám mục lên án điều tin tưởng sai lạc
là Đức Giêsu chỉ có một ư chí, là ư chí
Thiên Chúa, do lạc giáo Monotheletism chủ xướng.
Nếu Đức Giêsu có hai bản tính, thiên tính và
nhân tính, th́ Người cũng phải có hai ư
chí -- thiên ư và nhân ư.
Về
phương diện chính trị, Hồi Giáo là
đám mây đen ở chân trời. Mohammed từ trần
năm 632, và các tín đồ của ông ngày càng
gia tăng thế lực về quân sự và đe
dọa xâm lăng Âu Châu. Chỉ sau khi họ bại
trận trong các cuộc chiến chống với lực
lượng Kitô Giáo Đông Phương ở
Constantinople từ 674 đến 678, và từ 717
đến 718, và ở mặt trận Tours năm
732, lúc ấy Âu Châu mới thoát khỏi sự
chinh phục của các lực lượng Hồi
Giáo.
Việc
hoán cải các bộ lạc ở Âu Châu tiếp tục
trong thế kỷ thứ tám dưới sự lănh
đạo của đan sĩ người Anh Ḍng
Bênêđíctô, là
Thánh
Boniface, vị Tông Đồ của Đức; ngài
truyền giáo từ 723 đến 739. Thánh Boniface
là một trong hàng trăm đan sĩ Bênêđíctô
đă sống chết trong việc thiết lập
đức tin Công Giáo ở Âu Châu, dưới sự
dẫn dắt của đức giáo hoàng.
Với sự tiếp
tay của Thánh Boniface, đức giáo hoàng liên minh
với các vua của người Frank ở xứ
Gaul (bây giờ là nước Pháp), khởi đầu
từ Vua Pepin (hoặc Pippin). Năm 754, Đức Giáo
Hoàng Stêphanô II xức dầu tấn phong Pepin và ban
tặng cho ông danh hiệu Quư Tộc Rôma, là một
danh hiệu nguyên thủy chỉ ban tặng cho các
hoàng đế La Mă. Điều này tạo nên sự
trung kiên giữa đức giáo hoàng và các vua người
Frank, mà tột đỉnh của mối giao hảo
là lễ đăng quang của Charlemagne, con của
Pepin, ở Rôma năm 800. Sự tương giao giữa
các giáo hoàng và Charlemagne được triển nở
trong nhiều năm. Hậu quả không may của
liên minh này là sự xa cách của Giáo Hội Đông
Phương, v́ giáo hội này vẫn trung thành với
hoàng đế Byzantine ở Constantinople, là người
mà họ coi là hoàng đế đích thực của
Rôma. Mối tương giao giữa các giáo hội
Đông Phương và Tây Phương lại càng
thêm rạn nứt khi Charlemagne, v́ bất đồng
với một quyết định của Công Đồng
Nicaea II của Giáo Hội Đông Phương (787), mà
ông đă đem quân giành lại phần đất
mà hoàng đế Byzantine cho là của họ, và
ông c̣n ép buộc Giáo Hội Đông Phương phải
thêm chữ filioque vào Kinh Tin Kính Nicaea. Nguyên thủy, kinh Tin
Kính tuyên bố rằng Chúa Thánh Thần xuất
phát từ Chúa Cha (Gioan
15:26); bản kinh của Tây Phương mà Charlemagne
tán thành (và người Công Giáo Rôma ngày nay sử
dụng) tuyên xưng rằng Chúa Thánh Thần xuất
phát từ Chúa Cha và
Chúa Con (filioque). Điều này cho thấy khuyết điểm
của sự liên minh chặt chẽ giữa Giáo Hội
và nhà nước. Charlemagne là người cực lực
bảo vệ Giáo Hội và giúp phát triển đức
tin cũng như Giáo Hội Công Giáo; tuy nhiên, ông cũng
muốn kiểm soát Giáo Hội và có những quyết
định về thần học. Có lần, ông viết
thư cho đức giáo hoàng nói rằng công việc
của đức giáo hoàng là cầu nguyện cho
Giáo Hội, c̣n công việc của ông, một
hoàng đế, là cai quản Giáo Hội. Trên
nguyên tắc, có sự phân biệt giữa thế
quyền và thần quyền, nhưng trong thực tế,
có những hoàng đế hoặc vua quan muốn nắm
cả thần quyền, và cũng có các giáo hoàng
muốn kiểm soát cả vấn đề chính trị
và thế gian. Nhiều khi vua quan và các nhà cai trị
thế tục muốn có quyền tuyển chọn
và tấn phong linh mục và giám mục mà không cần
hội ư của đức giáo hoàng hay các giám mục
khác. Thói quen này, được gọi là giáo dân
tấn phong giáo sĩ (lay
investiture), là một trong những bất ḥa lớn
giữa các giáo hoàng và nhà cầm quyền thời
Trung Cổ. Muốn được an toàn v́ có
hoàng đế hay vua là người theo Kitô Giáo
th́ phải chịu sự can thiệp của họ
vào nội bộ Giáo Hội.
Phương
cách mở rộng Kitô Giáo của Charlemagne là
đem quân đi chinh phục lănh thổ, rồi sau
đó ông bắt người dân bị trị phải
lựa chọn việc rửa tội "bằng nước
hay bằng máu." Đây là thời kỳ khắc
nghiệt khi biết bao người không được
học hỏi về đạo mà theo đạo chỉ
v́ sợ nhà cầm quyền. Đạo Công Giáo trở
nên đạo xu thời, trong đó người dân
được rửa tội hàng loạt với hy
vọng sau này họ sẽ được học hỏi
thêm về đức tin Kitô Giáo. Giáo Hội sợ
bị rơi vào t́nh trạng ngoại giáo.
Để
duy tŕ nền văn minh và giáo dục đức
tin các tân ṭng, người ta trông đợi ở
các đan viện. Chính Charlemagne cũng cố gắng
làm sống lại tinh thần học hỏi bằng
cách tụ họp các học giả ngay trong dinh của
ông -- đứng đầu bởi một đan
sĩ người Anh có học thức, tên Alcuin --
và ông ra lệnh mỗi giám mục phải mở một
trường học trong khuôn viên thánh đường
của ḿnh. Điều đó có ảnh hưởng
đôi chút, nhưng sau khi Charlemagne từ trần và
Đế Quốc Carolingian bị chia cắt, tinh thần
học hỏi tàn dần. Ngoại trừ các
đan viện, Âu Châu ch́m vào thời kỳ tăm
tối của kiến thức và tâm linh.
Khi
Kitô Hữu Đông Phương chống với các lực
lượng Hồi Giáo, họ cũng phải trải
qua sự khủng hoảng thần học trong thế
kỷ thứ tám. Vào năm 730, hoàng đế
Byzantine là Lêô III, ban hành một sắc lệnh cấm
Kitô Hữu không được sùng kính ảnh tượng,
dù là ảnh Đức Kitô hay các thánh. Mặc dù
đây là phần quan trọng trong đời sống
tâm linh của Kitô Hữu Đông Phương, vua Leo
III thấy việc "thờ ảnh tượng"
đă bị cấm chỉ trong Phúc Âm, do đó
ông ra lệnh phá hủy tất cả các ảnh tượng.
Đức Giáo Hoàng Grêgôriô III và nhiều Kitô Hữu
Đông Phương phản đối điều này,
nhưng phải đợi đến khi Hoàng Hậu
Irene triệu tập Công Đồng Nicaea II (là công
đồng thứ bảy) năm 787 th́ việc
sùng kính ảnh tượng mới được
cho phép. Công đồng này phân biệt giữa sự
sùng kính ảnh tượng
thánh và sự thờ phượng, chỉ dành cho một ḿnh
Thiên Chúa. Giáo Hội Công Giáo Rôma luôn luôn đồng
ư với điều này, và thường dùng các
h́nh ảnh, tranh vẽ, kính mầu, tượng
điêu khắc để dạy bảo và nhắc
nhở giáo dân về các chân lư đức tin. Đức
Giáo Hoàng Grêgôriô từng viết, "H́nh ảnh
là sách của giáo dân," v́ đa số dân chúng
thời ấy không có học.
Ngay
từ đầu thế kỷ thứ chín dường
như đă có nhiều triển vọng cho Kitô
Giáo Tây Phương. Charlemagne áp đặt đức
tin trên các người bị đô hộ ở miền
bắc và miền trung Âu Châu, dần dà dân chúng
yêu quư Kitô Giáo và từ bỏ những hủ tục
của quá khứ ngoại giáo. Các giáo hoàng cũng
gia tăng ảnh hưởng, và sau khi Charlemagne từ
trần, con của ông là Louis de Pious, công bố rằng
quyền bính của vua th́ tùy thuộc đức
giáo hoàng. Con của Louis là Lothar được tấn
phong ở Rôma năm 823, và sau đó tất cả
các nhà cầm quyền của Đế Quốc La Mă
Thánh Thiện đều được tấn phong
ở Rôma. Đức Giáo Hoàng Nicôla I (858-67), vị
giáo hoàng thế lực nhất thế kỷ, tuyên
bố rằng nhiệm vụ của hoàng đế
là bảo vệ Giáo Hội Công Giáo Rôma chứ
không phải cai trị giáo hội. Không may, thế
lực của hoàng đế suy yếu dần v́
các khó khăn nội bộ và v́ sự xâm lăng
của người Viking từ phương bắc,
người Hungari từ phương đông, và người
Hồi Giáo Saracen từ phương nam. Sự hiệp
nhất và nền ḥa b́nh của đế quốc
rộng lớn mà Đại Đế Charles khổ công
xây dựng đă bắt đầu tan ră, và Âu
Châu đắm ch́m trong thời kỳ phong kiến
-- lục địa bị phân chia thành các nước
nhỏ bé tranh giành nhau để sống c̣n và
chém giết lẫn nhau.
Sự
suy tàn của Đế Quốc Tây Phương kéo
theo sự tàn tạ của Giáo Hội Tây Phương.
Sau Đức Nicôla I, không c̣n giáo hoàng nào đủ
mạnh để dẫn dắt Giáo Hội trong
t́nh thế này. Trong khoảng thời gian từ 858
đến 879, cuộc ly giáo, hay cắt đứt
quan hệ, đă xảy ra giữa các giáo hoàng và
các thượng phụ của Constantinople. Lư do là
v́ một tham vọng đất đai của Đức
Giáo Hoàng Nicôla I và sau đó Đức Thượng
Phụ Photius cáo buộc rằng Giáo Hội Công
Giáo Rôma không phải là giáo hội chính thống
v́ dùng chữ filioque
trong kinh Tin Kính, v́ duy tŕ tín điều về luyện
ngục, và các cáo buộc sai lầm khác. May mắn
thay, Đức Photius đă rút lại các cáo buộc
này; ngài đă ḥa giải với vị tân giáo
hoàng, và trong thế kỷ thứ mười, đă
có sự b́nh an tương đối giữa hai Giáo
Hội Tây Phương và Đông Phương. Tuy nhiên,
các vấn đề căn bản không bao giờ
được giải quyết, và cuộc đại
ly giáo giữa Đông và Tây bắt đầu vào năm
1054 là hậu quả buồn thảm của thế
kỷ này.
Vào
cuối thế kỷ thứ chín, Hồi Giáo bắt
đầu đàn áp Giáo Hội Đông Phương,
và sự bất ổn chính trị cũng như sự
nhu nhược của các giáo hoàng đă bóp nghẹt
Giáo Hội Tây Phương. Giáo sĩ bị kiểm
soát bởi nhà cầm quyền thế tục và rơi
vào t́nh trạng thất học cũng như không
trung thành với lời thề sống độc
thân. Hầu hết các đan viện cũng mất
tinh thần đạo đức, trở nên thối
nát và xu thời. Sự suy sụp của xă hội
Tây Phương và sự tàn tạ của Giáo Hội
xảy ra song song, v́ cả hai liên hệ với nhau
trong quá nhiều lănh vực.
Tuy
nhiên, ngay cả lúc đầy khuyết điểm,
Thiên Chúa vẫn tiếp tục hoạt động
trong Giáo Hội. Vào cuối thế kỷ thứ
chín, hai đan sĩ,
Methodius
và Cyril, bắt đầu công cuộc truyền
giáo cho người Khazar và người Slav ở
Đông Âu. Không những các ngài đem lại đức
tin Kitô Giáo cho người dân mà Thánh Cyril c̣n sáng
tác mẫu tự Slavonic để đem lại cho
dân tộc này một ngôn ngữ mới và là một
phương tiện mới cho nền văn hóa của
họ.
Một
sự thật đáng tiếc là đôi khi t́nh trạng
tinh thần của Giáo Hội cũng không khác ǵ hơn
t́nh trạng tinh thần của xă hội nói chung.
Điều này rất đúng với thế kỷ thứ
mười. Trong sáu mươi năm đầu, chức
giáo hoàng bị kiểm soát bởi các nhà quư tộc
Rôma, là những người không xứng đáng với
chức vụ cao trọng này. Tệ hại nhất
trong tất cả, Đức Giáo Hoàng Gioan XII (955-64)
quá thối nát đến độ Thiên Chúa phải
giải thoát Giáo Hội Công Giáo của Người
qua tay nhà cầm quyền thế tục, là Otto I (Đại
Đế), là Hoàng Đế Rôma Thánh Thiện đầu
tiên của nước Đức. Otto và các người
kế vị muốn dùng Giáo Hội Công Giáo như
một công cụ giúp phục hồi trật tự
trong đế quốc.
Phương
cách "giáo dân tấn phong giáo sĩ" -- các
hoàng đế lựa chọn các giám mục và
ngay cả các giáo hoàng -- là một trong những phương
cách chính để kiểm soát Giáo Hội. Nhờ
ḷng thương xót của Thiên Chúa, các giáo hoàng
được tuyển chọn bởi các hoàng
đế Đức lại là những người có
phẩm hạnh cao, nhất là Đức Giáo Hoàng
Sylvester II (999-1003). Kết quả là Giáo Hội Tây
Phương bắt đầu hồi sinh.
Yếu
tố then chốt trong sự canh tân Giáo Hội vào
thời điểm này là sự canh tân đời
sống đan viện, được khởi sự
bằng việc sáng lập một đan viện mới,
tên Cluny ở Pháp vào năm 910. Đan viện này thuộc
ḍng Bênêđíctô đặt riêng một số
đan sĩ chỉ để cầu nguyện, và mọi
người phải giữ im lặng, ngoại trừ
khi đọc kinh Nhật Tụng. Các đan sĩ tự
bầu lấy đan viện trưởng và chỉ
chịu trách nhiệm với đức giáo hoàng, bởi
đó không có sự kiểm soát của giáo dân. Tổ
chức đan viện này quá hữu hiệu đến
độ nhiều giám mục và thái tử đă
mời đan viện Cluny thành lập các chi nhánh
trong các giáo phận của họ (ở Ḥa Lan, Ư,
Tây Ban Nha, Anh và Đức). Hệ thống ḍng tu
đầu tiên được bắt đầu, và
vào năm 1100 đă có đến 1,500 chi nhánh. Sự
canh tân của đan viện Cluny đưa đến
sự cải tổ của các đan viện khác cũng
như việc thành lập các hệ thống
đan viện mới, tỉ như Ḍng Camaldolese của
Thánh Rômuanđô
và Ḍng Carthusian của
Thánh
Brunô. Ngọn lửa thánh thiện này đă canh
tân Giáo Hội Công Giáo trong thế kỷ mười
một khi các đan sĩ được mời làm
giám mục trông coi các địa phận đang sẵn
sàng cải tổ. Các chi nhánh của Cluny, do chính
đức giáo hoàng điều khiển, trở nên
một phương cách để đức giáo
hoàng phục hồi tinh thần và quyền bính.
Các vị giáo hoàng vĩ đại của hai thế
kỷ tới -- Đức Grêgôriô VII, Đức Urbanô
II, và Đức Paschal II -- trước đây đều
là các đan sĩ của Cluny.
T |
Các
hoàng đế Đức của Đế Quốc Otto tiếp
tục kiểm soát Giáo Hội Tây Phương trong
thế kỷ mười một, nhưng việc
đề cử các giáo hoàng tương lai cũng
như sự hỗ trợ của họ đă có một
ảnh hưởng bất ngờ. Các giáo hoàng và
các hồng y bắt đầu nhận thức rằng,
chủ quyền đất đai cũng như việc
tuyển chọn các giáo hoàng và giám mục của
các hoàng đế và nhà cầm quyền thế tục
là một vi phạm đến sự tự do của
Giáo Hội. Các ngài tin rằng ngay cả các hoàng
đế cũng phải phục tùng quyền bính
thiêng liêng của phẩm trật Công Giáo.
Điều
này rất đúng trên lư thuyết, nhưng không một
giáo hoàng nào đủ mạnh và can đảm
để đem ra thực hành, măi cho đến
năm 1073, khi Đức Hồng Y Hildebrand được
chọn làm giáo hoàng, lấy tên là Grêgôriô VII. Với
tính khí nóng nẩy và niềm tin của một
ngôn sứ thời Cựu Ước, trong sắc lệnh
nổi tiếng của ngài (Dictatus
papae, 1075), Đức Grêgôriô tuyên bố: đức
giáo hoàng đă được Đức Kitô ban cho
quyền tối cao qua Thánh Phêrô. Đức giáo hoàng
có quyền tổng quát trong Giáo Hội và cũng có
quyền truất phế các hoàng đế, hoặc
thay đổi các luật lệ nào mâu thuẫn với
luật lệ của Thiên Chúa hay quyền bính của
Giáo Hội. Nhất là, Đức Grêgôriô đă dùng
thẩm quyền của ngài để cải tổ
Giáo Hội Công Giáo, mà lúc bấy giờ rất cần
canh tân ở mọi tầng lớp. Đức
Grêgôriô VII chứng tỏ rằng, với sự trợ
giúp của Thiên Chúa, một giáo hoàng có thể
canh tân Giáo Hội Công Giáo. Ngài nhấn mạnh rằng
các linh mục phải trung thành với lời khấn
độc thân và tẩy chay mọi h́nh thức
buôn thần bán thánh, nhận tiền bạc để
thi hành mục vụ. Khi các nhà cầm quyền và
các giám mục, v́ quyền lợi riêng tư, do dự
thi hành sắc lệnh này, Đức Grêgôriô đă gửi
các đại diện của ngài đến tận
nơi, sẵn sàng ra vạ tuyệt thông những
ai từ chối không chịu cải tổ. Quyền
bính của Đức Grêgôriô VII được tỏ
rơ khi ngài ra vạ tuyệt thông Hoàng Đế Rôma
Thánh Thiện là Henry IV v́ không tán thành sự canh
tân của Giáo Hội. Henry đă phải quỳ
trên tuyết ở Canossa để xin đức giáo
hoàng tha thứ, và đă được ban cho. Thật
trớ trêu, việc tha thứ Henry IV đă làm các
thái tử Đức xa lánh, và dẫn đến việc
lưu đầy của Đức Grêgôriô và cái chết
của ngài năm 1085. Từ nơi lưu đầy,
Đức Grêgôriô viết:
Kể
từ khi Giáo Hội đặt tôi lên ngai tông
đồ, tất cả những ǵ tôi mong muốn
cũng như cùng đích mọi cố gắng của
tôi là Giáo Hội Thánh Thiện... phải phục hồi
vinh dự và được tự do, trong sạch và
Công Giáo.
Công
việc của Đức Grêgôriô VII, được
sự hỗ trợ của các đan viện, đă
đẩy mạnh sự canh tân chính đáng của
Giáo Hội Công Giáo và duy tŕ sự tự do của
Giáo Hội khỏi sự kiểm soát của các
nhà cầm quyền thế tục, là những người
muốn lợi dụng Giáo Hội cho mục đích
riêng tư của họ. Lư thuyết về quyền
bính của đức giáo hoàng không có ǵ mới mẻ,
nhưng lư thuyết ấy đă bênh vực và thi
hành điều mà Giáo Hội Công Giáo tin tưởng
từ bao thế kỷ về vai tṛ và quyền
bính của đức giáo hoàng trong Giáo Hội và
trong thế giới.
Các
vị giáo hoàng sau đây của thế kỷ, Đức
Urbanô II (1088-99) và Đức Paschal II (1099-1118), là những
người thánh thiện, cương quyết tiếp
nối công việc cải tổ và canh tân. Đức
Urbanô II kiên cường vai tṛ lănh đạo của
đức giáo hoàng qua việc triệu tập Công
Đồng Clermont năm 1095 để thành lập Thập
Tự Quân lần thứ nhất, nhằm giải
thoát các linh địa của Đông Phương khỏi
sự kiểm soát của người Hồi Giáo.
Chắc chắn Đức Urbanô đă không nh́n thấy
tương lai của các cuộc thập tự
chinh, ngài chỉ coi đó là một phương tiện
thực tế để Giáo Hội Tây Phương
biểu lộ đức tin nơi uy quyền của
Đức Kitô, và cũng để hỗ trợ Kitô
Hữu Đông Phương đang chịu đau khổ
dưới các chế độ Hồi Giáo.
Thế
kỷ mười một đánh dấu giây phút buồn
thảm nhất của lịch sử Giáo Hội,
là sự tách biệt giữa Giáo Hội Đông Phương
và Giáo Hội Tây Phương vào năm 1054. Sự
chia cách này chắc chắn đă đi ngược
lại ư muốn của Thiên Chúa, là người
đă sai Đức Giêsu h́nh thành một dân tộc,
một giáo hội. Vào thời điểm này, Kitô
Giáo bị chia cắt làm hai: Giáo Hội Công Giáo -
công nhận đức giáo hoàng như vị thủ
lănh ở thế gian -- và Giáo Hội Chính Thống
Giáo - do các thượng phụ lănh đạo, tỉ
như đức thượng phụ của
Constantinople.
Điều
ǵ đă gây nên cuộc ly giáo này? Các biến cố
bề ngoài xảy ra ngay lúc đó chỉ là triệu
chứng của các khó khăn đă âm ỉ trong
nhiều thế kỷ. Hầu hết các sử gia
đều cho rằng sự phân cách Đông và Tây về
cả hai phương diện, giáo hội (quyền
tối thượng của đức giáo hoàng) và
thần học (về vấn đề filioque).
Trong các cuộc đối thoại đại kết
ngày nay, vẫn c̣n hai trở ngại chính cho sự
hợp nhất. Về quyền tối thượng
của đức giáo hoàng, vấn đề
được đặt ra là đức giáo hoàng
có quyền cai quản và dạy bảo toàn thể
Giáo Hội hay không. Tây Phương tin rằng
đức giáo hoàng có thẩm quyền đó;
Đông Phương tin rằng mọi thượng phụ,
kể cả vị giám mục Rôma, đều có
quyền bằng nhau. Năm 1054, đức thượng
phụ Constantinople, Micae Caerularius, chỉ trích một
vài thông lệ của Giáo Hội Tây Phương,
và xưng hô với đức giáo hoàng như một
người anh em thay v́ coi là vị cha chung, và
đức thượng phụ từ chối không
chịu tiếp đón các đại diện của
đức giáo hoàng khi họ đến Constantinople
trong ba tháng. Sau cùng, các vị đại diện
đă để lại trên bàn thờ trong giáo
đường của đức thượng phụ
một Chỉ Dụ Tuyệt Thông và từ giă
Constantinople sau khi "phủi bụi dưới chân
các ngài." Vài ngày sau, Đức Micae Caerularius phản
ứng lại bằng cách ra vạ tuyệt thông
các đại diện và đức giáo hoàng. Vạ
tuyệt thông đôi bên này được duy tŕ
măi cho đến năm 1965, khi Đức Giáo Hoàng
Phaolô VI gặp gỡ Đức Thượng Phụ
Athenagoras trong ṿng tay thân ái và cả hai đă cùng
hủy bỏ vạ tuyệt thông ấy. Nhờ
ơn Chúa, công việc tái hợp Chính Thống
Giáo và Công Giáo Rôma hiện đang được
tiến hành cách tốt đẹp.
Bất
kể những t́ tích của Giáo Hội, phúc âm của
Đức Giêsu Kitô tiếp tục được loan
truyền. Trong thế kỷ mười một, Đan
Mạch và Na Uy theo Kitô Giáo, sau đó không lâu là Thụy
Điển (1164). Nước Nga tiếp đón các nhà
thừa sai từ Đông Phương và cả Tây Phương,
cho đến khi thái tử Nga quyết định
rửa tội theo Giáo Hội Byzantine, mà sau đó
trở thành Giáo Hội Chính Thống Nga với vị
thượng phụ ở Moscow.
rong
thế kỷ này có quá nhiều chủ đề
riêng biệt nên được chia ra thành các đề
tài sau:
1. Các tương giao
giữa Giáo Hội và Nhà Nước ở Tây Phương: Đức giáo hoàng và
Hoàng Đế Rôma Thánh Thiện tiếp tục tranh
giành quyền tuyển chọn các giám mục và tu
viện trưởng, măi cho đến khi có sự
tương nhượng sau Thỏa Ước Worms
năm 1122. Theo thỏa ước này, các giám mục
và tu viện trưởng được tuyển
chọn theo luật của Giáo Hội, với quyền
bổ nhiệm của nhà cầm quyền dân sự
nếu muốn, và trong nghi thức tấn phong Giáo
Hội sẽ ban cho họ nhẫn và gậy giám mục.
Như vậy, đức giáo hoàng, tu viện trưởng,
và các giám mục bị kẹt giữa hai thế
giới, thế giới quyền lực chính trị
và thế giới lănh đạo tinh thần.
Các
giáo hoàng của thế kỷ mười hai và mười
ba cố gắng sống hài ḥa với các nhà cầm
quyền và các quốc gia để duy tŕ sự tự
do của Ṭa Thánh, cũng như để giữ
thế quân b́nh giữa các quốc gia Âu Châu nhằm
ngăn ngừa bất cứ nhà cai trị nào muốn
kiểm soát Giáo Hội. Nhiều khi các giáo hoàng thất
bại. Hoàng đế Frederick I (Barbarossa), là người
đầu tiên của ḍng họ Hohenstaufen cai trị
Đế Quốc Rôma Thánh Thiện, đă xâm chiếm
Rôma năm 1159 và buộc Đức Giáo Hoàng Alexander
III phải bỏ trốn. Sau đó, Đức Alexander
liên minh với lực lượng Lombard ở miền
bắc nước Ư, đánh bại quân của
Frederick ở Leghano năm 1176, và sau đó làm ḥa với
Frederick. Sau khi hoà giải với Giáo Hội,
Frederick dẫn đầu Thập Tự Chinh III sau
khi Giêrusalem bị thất thủ vào năm 1187.
Ở
Anh, Đức Tổng Giám Mục Tôma Becket của
Canterbury tranh đấu cho quyền lợi và sự
tự do của Giáo Hội cho đến khi vua
người Norman, là Henry II, buộc đức tổng
phải trốn sang Pháp trong ṿng sáu năm. V́ sự
nổi tiếng của Đức TGM Tôma, nhà vua đă
cho phép ngài về nước năm 1170. V́ đức
tổng tiếp tục ủng hộ đức giáo
hoàng, Henry nổi cơn thịnh nộ và một
vài vệ sĩ của ông đă giết đức
tổng ngay trên tam cấp vương cung thánh
đường Canterbury. Hành động hung ác này
đă chấn động cả Âu Châu. Đức
giáo hoàng đă ra vạ tuyệt thông vua Henry, mà
sau đó ông đă sám hối và rút lại lời
chống đối Giáo Hội.
Đức
Tôma Becket được tuyên xưng là thánh năm
1173 sau nhiều phép lạ xảy ra ở mộ của
ngài.
2. Thập Tự Chinh. Những tranh chấp
chính trị được các giáo hoàng coi là cần
thiết để duy tŕ sự tự do của
Giáo Hội khỏi sự lũng đoạn và thống
trị của các nhà cầm quyền dân sự. Việc
sử dụng quân đội và liên minh quân sự
của các giáo hoàng được coi là chính đáng
v́ lư do tự vệ -- bảo vệ đất
đai của đức giáo hoàng và quyền cai trị
Giáo Hội một cách tự do của đức
giáo hoàng.
Tuy
nhiên, các cuộc thập tự chinh là một trường
hợp khác biệt. Thập tự chinh là các cuộc
viễn chinh có tính cách quân sự do Giáo Hội tổ
chức để giải thoát Đất Thánh khỏi
sự kiểm soát của người Hồi Giáo,
và để bảo vệ đức tin Kitô Giáo cũng
như bảo vệ người tín hữu đi hành
hương. Thánh Augustine đă triển khai ư tưởng
"cuộc chiến chính nghĩa," và Giáo Hội
tin rằng các cuộc thập tự chinh nằm
trong khuôn khổ ấy. Thật vậy, những người
tham dự thập tự quân được Giáo Hội
tha thứ mọi h́nh phạt v́ tội lỗi của
họ. Đức Urbanô II, người triệu tập
Thập Tự Chinh I, đă ngăn cấm tất cả
các động lực bất chính khi tham dự thập
tự quân, tỉ như v́ vinh dự hoặc lợi
lộc thế tục.
Trên
lư thuyết, các cuộc thập tự chinh có thể
được coi là chính đáng, nhưng v́ bản
tính yếu đuối con người, hậu quả
của các cuộc chiến này thường rất
bi thảm. Thập Tự Chinh I là một thành công
về quân sự, nhưng việc trục xuất các
thượng phụ Hy Lạp ở Antiôkia đă
làm sâu đậm thêm sự chia cắt giữa
Giáo Hội Đông Phương và Rôma, và đoàn
quân thập tự ấy đă bừa băi giết
chết hàng trăm người vô tội khi họ
tái chiếm Giêrusalem.
Mặc
dù
Thánh Bernard ở
Clairvaux đă cổ động cho Thập Tự
Chinh II vào năm 1146, nhưng đó là một thất
bại về quân sự. Thập Tự Chinh III vào
năm 1189 cốt để tái chiếm Giêrusalem khỏi
tay người Thổ Nhĩ Kỳ Saladin, nhưng tất
cả những ǵ đạt được chỉ
là một thỏa ước đảm bảo sự
an toàn cho Kitô Hữu khi đi hành hương ở
Đất Thánh. Hầu hết mọi người
đều đồng ư rằng các cuộc thập
tự chinh đă quá xa rời ư định nguyên
thủy, và tệ hại hơn nữa, sự
tương giao giữa Kitô Giáo Đông và Tây lại
càng thêm suy yếu khi các nhà lănh đạo các cuộc
thập tự chinh sau này đă viễn chinh với
các lư do thiếu thánh thiện.
3. Sự Canh Tân Giáo Hội
và Lạc Giáo. Phong
trào canh tân Giáo Hội Công Giáo được bắt
đầu trong thế kỷ mười một và
tiếp tục sang thế kỷ mười hai. Thánh
Robert ở Molesme thành lập một đan viện
ở Citeaux năm 1098, và đó là khởi đầu
của Ḍng Xitô. Một trong những đan sĩ trẻ
tuổi của Xitô, tên Bernard, đă thiết lập
một chi nhánh ở Clairvaux năm 1116 và làm đan
viện trưởng cho đến khi từ trần
năm 1153. Là một thầy giảng, một vị
linh hướng, và thần học gia, Thánh Bernard
ở Clairvaux là vị lănh đạo canh tân đời
sống tâm linh trong thế kỷ mười hai. Không
bao lâu ḍng Xitô có ảnh hưởng nhất trong
Giáo Hội, vượt cả ḍng Cluny, và sau cùng
có đến sáu trăm đan viện được
các tu sĩ Xitô thiết lập. Không những các
đan viện được mọc lên như nấm
mà cả các linh mục triều cũng được
canh tân bởi các phong trào như Premonstratensian của
Thánh Norbert, một
người bạn của Thánh Bernard.
Sự
canh tân quét sạch Giáo Hội, nhưng ảnh
hưởng chính trị và sự sung túc ngày càng
gia tăng của Giáo Hội Công Giáo, kể cả
các đan viện, đưa đến sự xuất
hiện của một số tổ chức mà họ
tự cho rằng có đời sống căn bản
hơn và trung thực hơn với phúc âm so với
Giáo Hội. Người Cathar, là con cháu của người
Manikê, xuất hiện từ phía nam nước Pháp
và được gọi là Albigensian, v́ họ thuộc
miền Albi. Các tổ chức khác, tỉ như các
môn đệ của Peter Waldes (phái Waldensian) và
Humiliati ở Ư, khởi sự bằng cách thúc giục
cải tổ và sống khó nghèo trong Giáo Hội,
nhưng dần dà họ tách khỏi sự trung
thành với Giáo Hội Công Giáo và bị kết
án. Hầu hết các tổ chức này thấy chướng
tai gai mắt v́ sự giầu sang và thối nát
trong Giáo Hội Công Giáo và họ muốn cải
cách tận gốc, ngay tức th́ mà không phải
quy phục đức giáo hoàng và các giám mục.
Tuy nhiên, cũng có một vài nhóm sống khắc
khổ và nghiêm nhặt như các đan viện
trước đây - Xitô, Carthusian, v.v. Sự canh
tân xảy ra khắp nơi, và các tổ chức
Công Giáo này chứng minh rằng Giáo Hội thực
sự muốn canh tân và đă thể hiện
được điều đó.
4. Thần Học và
Giáo Dục. Nếp
sống mới trong đan viện và các trường
địa phận đem lại đời sống
mới cho Giáo Hội qua nhiều phương cách.
Kiểu kiến trúc vuông vức, thoáng rộng của
Rôma đă nhường chỗ cho các thánh
đường kiểu Gôtích với ngọn tháp
cao chót vót. H́nh ảnh Đức Kitô là vua được
thay thế bằng h́nh ảnh Đức Kitô đau khổ
trên thập giá, có lẽ phản ánh một đời
sống cam go và nhiều bất trắc trong giai
đoạn này. Sự đạo đức của
người dân có tính cách riêng tư và cá biệt
hơn, và việc sùng kính các thánh nhất là Đức
Maria, Mẹ Thiên Chúa, bắt đầu triển nở.
Việc thờ phượng ngày càng hướng về
Thánh Thể, nhất là sự hiện diện thực
sự của Đức Kitô trong Ḿnh Thánh mà tín
điều này đă được nhiều công
đồng xác nhận. Danh từ "biến thể"
bắt đầu được sử dụng
để diễn tả sự thay đổi của
bánh và rượu trở nên Ḿnh và Máu Đức
Kitô trong h́nh thức bí tích. Tuy nhiên, Giáo Hội thời
Trung Cổ chú trọng đến sự chiêm ngưỡng
Ḿnh Thánh hơn là rước Thánh Thể vào trong
ḷng. Thánh Lễ mang đặc tính của một vở
tuồng để nh́n xem, một tấn bi kịch,
thay v́ một bữa tiệc chung của mọi người.
Thế
kỷ mười hai cũng ghi dấu sự h́nh
thành của thần học Kinh Viện. Lư trí
được sử dụng để hiểu biết
các mầu nhiệm về đức tin và thần
học. Các thần học gia muốn tạo thành một
tổng hợp bao gồm các tín điều trong Phúc
Âm, các văn bản của các Giáo Phụ tiên khởi
và triết học. Họ tin rằng, đức tin
và lư lẽ không thể trái ngược nhau mà phải
bổ sung cho nhau.
Đứng
đầu các thần học gia vĩ đại
trong thế kỷ này là
Thánh
Anselm ở Canterbury (1033-1109), là cha đẻ của
Học Thuyết Kinh Viện. Sau này xuất hiện
một người tài giỏi, nhưng hơi kỳ
dị là Peter Abelard, mà những sai lạc của
ông đă bị bài bác bởi Thánh Bernard ở
Clairvaux và Peter Lombard. Cuốn Luận Đề Thần
Học của Peter Lombard là một phương pháp
được coi là tiêu chuẩn giáo khoa về thần
học trong suốt thế kỷ mười ba.
Cũng cần đề cập đến Gratian, một
đan sĩ Camaldolese mà công tŕnh của ngài là xếp
đặt thứ tự các giáo huấn và quy luật
của Giáo Hội Công Giáo, từ đó phát sinh
khoa học mới về giáo luật trong thế kỷ
mười hai.
Bất
kể những đấu tranh chính trị của
các giáo hoàng và kết quả lẫn lộn của
các cuộc thập tự chinh, rơ ràng là Thiên Chúa
đă làm việc trong thế kỷ mười hai.
Đó là con đường Người chuẩn bị
cho thế kỷ tốt đẹp nhất về tâm
linh, văn hóa, và tiến bộ tri thức trong lịch
sử văn minh Tây Phương: thế kỷ
mười ba.
T |
Thế
kỷ mười ba là một bông hoa thời Trung Cổ
và là cao điểm của Kitô Giáo. Trong hầu hết
lănh vực của đời sống, chúng ta đều
thấy ảnh hưởng của Giáo Hội và sự
tiến bộ về văn hóa và học thuật.
Chắc chắn có những giai đoạn u ám, như
cuộc thập tự chinh và Ṭa Thẩm Tra
được phát động để chống với
lạc giáo. Nhưng ánh sáng của các thành quả
trong thế kỷ này đă xua tan tăm tối và
soi sáng cho Giáo Hội Công Giáo măi cho đến ngày
nay.
1. Các Giáo Hoàng và Công
Đồng. Thế kỷ mười
ba xuất hiện các giáo hoàng có ảnh hưởng
nhiều nhất và một số công đồng tốt
đẹp nhất trong lịch sử Kitô Giáo. Đức
giáo hoàng tài giỏi nhất là Đức Innôxentê III
(1198-1216), là người đă xoay sở để
mọi nhà cầm quyền thế tục phải phục
tùng Giáo Hội qua sự thuyết phục hoặc
sử dụng vạ tuyệt thông hay khai trừ.
Tuy nhiên quyền lực trần thế không phải
là mục đích của Đức Innôxentê; ngài muốn
hoàn toàn kiểm soát Giáo Hội để có thể
cải tổ. Vào năm 1215, ngài triệu tập
Công Đồng Latêranô IV, quy tụ trên bốn trăm
giám mục và tám trăm viện phụ, tu viện
trưởng cũng như đại diện các
nhà cầm quyền. Công đồng này đă tán
thành các nghị định cải tổ mà các quyết
nghị ấy đă ảnh hưởng đến
Giáo Hội trong nhiều thế kỷ, tỉ như
nhiệm vụ của người Công Giáo là phải
đi xưng tội và rước lễ mỗi
năm ít là một lần trong mùa Phục Sinh. Công
đồng này tán thành việc sử dụng danh từ
biến thể và cũng có những xử trí
để ngăn chặn lạc giáo, tỉ như
Ṭa Thẩm Tra.
Đức
Innôxentê III, người đầu tiên dùng danh xưng
Đại Diện Đức Kitô, đă chứng tỏ
sự khôn ngoan của ngài trong cách giải quyết
đối với các tu sĩ ḍng khất thực
hay Phong Trào Khó Nghèo. Nhiều Kitô Hữu cảm thấy
chướng tai gai mắt v́ của cải đang
đổ về Tây Phương như một kết
quả của cuộc thập tự chinh và v́ xă hội
ổn định. Các Kitô Hữu này muốn sống
cuộc đời đơn giản khó nghèo trong
phúc âm để noi gương Đức Giêsu Kitô.
Đức Innôxentê nhận thấy cần phải có
tinh thần này trong sự cải tổ Giáo Hội,
do đó ngài tán thành các ḍng tu mới của những
người sống khó nghèo, c̣n được gọi
là Tu Sĩ Khất Thực, được sáng lập
bởi
Thánh Phanxicô
Assisi (1209) và
Thánh
Đaminh Guzman (1215). Đức Innôxentê III c̣n đem trở
về với Giáo Hội Công Giáo các tổ chức
trước đây ĺa bỏ Giáo Hội, tỉ như
Hội Người Nghèo ở Lyons, do Durand ở
Huesca lănh đạo, và Hội Người Công
Giáo Khó Nghèo. Một số cho rằng Đức
Innôxentê III là một chính trị gia hơn là một
vị thánh, nhưng không ai có thể từ chối
rằng ngài đă thành công hơn bất cứ vị
giáo hoàng nào thời Trung Cổ trong việc kiên cường
và cải tổ Giáo Hội.
V́
đây là lịch sử cô đọng nên chúng ta
không thể kể hết tất cả các giáo
hoàng xuất sắc của thế kỷ, nhưng cần
đề cập đến hai công đồng
đă tiếp tục việc cải tổ Giáo Hội:
Công Đồng Lyons I (1245) và II (1274). Cả hai công
đồng được tổ chức ở Pháp
v́ áp lực chính trị trên các giáo hoàng ở
Rôma. Nước Pháp trung thành với đức giáo
hoàng, và vị vua thánh thiện của Pháp,
Vua
Louis IX (1214-70, sau này được phong thánh),
đă hỗ trợ và bảo vệ Giáo Hội. Vị
giáo hoàng sau cùng của thế kỷ mười
ba, Đức Boniface VIII (1294-1303), là một thí dụ
điển h́nh về các thành quả của các
giáo hoàng thời bấy giờ. Ngài tiếp tục
đả kích bất cứ sự can thiệp nào của
chính phủ vào nội bộ Giáo Hội, và trong chỉ
dụ nổi tiếng của ngài, Unam Sanctam, ngài tuyên bố thẩm quyền tuyệt
đối của đức giáo hoàng trên Giáo Hội
và trật tự xă hội Kitô Giáo. Năm Thánh
1300 do ngài công bố rất thành công, quy tụ
trên một triệu người hành hương
đến Rôma. Thẩm quyền của đức
giáo hoàng đạt đến tuyệt đỉnh
trong thời Đức Innôxentê III và Boniface VIII.
2. Các Cuộc Thập
Tự Chinh và Ṭa Thẩm Tra.
Khía cạnh u ám của thế kỷ này xảy ra
là v́ Giáo Hội cố gắng giữ lấy lănh
thổ của Kitô Giáo ở Đông Phương và
dùng quyền lực để tiêu diệt các lạc
giáo. Cuộc Thập Tự Chinh IV được Đức
Innôxentê III triệu tập năm 1202, nhưng dù
không có phép của ngài, thập tự quân đă dừng
chân ở Constantinople để tấn phong một
hoàng đế có lợi cho Tây Phương. Binh lính
không ngừng bóc lột và tàn phá thành phố mỹ
miều này vào năm 1204. Một nhà b́nh luận viết,
"Ngay cả người Hồi Giáo c̣n có ḷng từ
bi hơn." Sự kiện này đă tạo nên nỗi
cay đắng lớn lao trong tâm hồn Kitô Hữu
Đông Phương đối với Giáo Hội Công
Giáo, mà cho đến nay vẫn chưa thể hoàn
toàn hàn gắn, hơn nữa nó c̣n làm mất
chính nghĩa của toàn thể phong trào thập tự
chinh. Đức Innôxentê III rúng động v́ biến
cố này, nhưng trong Công Đồng Latêranô IV, ngài
đă triệu tập một cuộc thập tự
chinh khác để khôi phục thành phố
Giêrusalem. Thập Tự Chinh V (1218-21) tương
đối thành công nhưng thất bại trong việc
tái chiếm Giêrusalem. Qua phương cách ngoại
giao, Hoàng Đế Frederick II xoay sở để chiếm
lại Giêrusalem trong cuộc Thập Tự Chinh VI
(1228-29), nhưng chỉ kéo dài được mười
lăm năm. Năm 1291, Đất Thánh lọt khỏi
tầm kiểm soát của Tây Phương với sự
bại trận của các lực lượng Kitô
Giáo ở Acre. Bài học của các cuộc thập
tự chinh trong việc tái chiếm Đất Thánh vẫn
c̣n giá trị cho đến ngày nay. V́ Đức
Kitô, đừng bao giờ Giáo Hội Công Giáo
tuyên chiến để tái chiếm lănh thổ,
ngay cả Đất Thánh; cũng không nên cho phép xảy
ra một cuộc chiến giữa các quốc gia v́
lư do này.
Trong
thế kỷ mười ba, Giáo Hội Công Giáo
c̣n phải tiến hành một mặt trận khác
quan trọng hơn. V́ sự giầu sang và thối
nát trong Giáo Hội, một vài tổ chức như
nhóm Cathar và Waldensian đang lôi cuốn nhiều người
Công Giáo Âu Châu, và các nhóm này từ chối nhân
tính của Đức Kitô, tẩy chay các bí tích, và
khước từ quyền bính thiêng liêng của
các linh mục và của Giáo Hội. Để đối
phó với vấn đề này, trong thế kỷ
mười hai, Giáo Hội Công Giáo thiết lập
một thủ tục pháp lư để thẩm vấn
những người bị t́nh nghi là lạc giáo.
Tiến tŕnh pháp lư và ṭa án này được nổi
tiếng dưới tên Ṭa Thẩm Tra (Inquisition).
Thật
khó để chúng ta hiểu rằng trong thời
ấy người ta không tin có sự tự do tôn
giáo hay sự khoan dung. Một người sống
trong đế quốc hay quốc gia Công Giáo th́
được cho là phải tin tưởng vào
giáo huấn Công Giáo. Nếu họ không tin, họ
được coi là nguy hiểm cho xă hội và
linh hồn của họ bị nguy cơ diệt
vong. Giáo Hội Công Giáo coi Ṭa Thẩm Tra là một
cách để duy tŕ sự tinh tuyền của
đức tin Công Giáo trong một quốc gia Công
Giáo, và để ǵn giữ linh hồn những người
lạc giáo khỏi bị tiêu vong qua sự ăn
năn sám hối và việc chấp nhận đức
tin chân chính. Khoảng giữa thế kỷ mười
ba, ngay cả việc tra tấn của nhà cầm
quyền thế tục cũng được Giáo Hội
cho là đúng, v́ trên nguyên tắc, thà bị
đau khổ phần xác ở đời này c̣n hơn
bị đau khổ trong lửa hoả ngục
đời đời. (Nên để ư rằng, luật
La Mă, được duy tŕ ở Tây Phương bởi
hoàng đế Justinian, cho sử dụng sự tra tấn
để buộc phải thú tội). Tuy nhiên, trái
với điều tin tưởng thông thường,
mục đích của Toà Thẩm Tra là để
tiêu diệt tận gốc nạn lạc giáo qua sự
hoán cải những người lầm lạc trở
về với đức tin chân chính. Cũng cần
lưu ư ở đây, khi Đức Grêgôriô IX cho thiết
lập các ṭa thẩm tra cách vĩnh viễn vào năm
1233, ngài đă chọn các người từ ḍng
Khất Thực, nhất là tu sĩ ḍng Đa Minh,
để hoán cải dân chúng qua Ṭa Thẩm Tra.
3. Phong Trào Khó Nghèo và
Các Ḍng Khất Thực.
Thánh Phanxicô Assisi sinh năm 1181, con của một
thương gia buôn vải của thành phố miền
trung nước Ư này. Khi lớn lên, Phanxicô nổi
tiếng là thích liên hoan và vui nhộn. Được
khích động bởi h́nh ảnh hào hùng của
tinh thần hiệp sĩ, Phanxicô tham dự cuộc
chiến. Sau khi bị thương và bị bắt
làm tù binh, Phanxicô trở về Assisi dưỡng bệnh.
Cuộc đời ngài bắt đầu thay đổi.
Một ngày kia, khi cầu nguyện trong nhà thờ
San Damiano, ngài nghe Đức Kitô trên thánh giá kêu gọi
ngài "đi dựng lại Giáo Hội của Ta,
đang đổ nát." Lúc đầu, Phanxicô tưởng
Chúa gọi ngài sửa chữa các ngôi nhà thờ cũ
kỹ, nhưng sau đó ngài hiểu Chúa muốn
xây dựng lại Giáo Hội qua lối sống
phúc âm thật nghèo khó, để noi gương Đức
Kitô nghèo hèn. Vào năm 1209, Phanxicô và mười một
đồng bạn lên Rôma để xin Đức
Innôxentê II chấp thuận cho quy luật đơn
giản của họ, mà trong đó chỉ có một
vài gịng chữ trích từ Phúc Âm. Lúc đầu
Đức Innôxentê do dự, nhưng ngài mơ thấy
Phanxicô đưa tay chống đỡ các cột
trụ của Giáo Hội Rôma. Kết quả là Đức
Innôxentê tán thành quy luật của Phanxicô và cho
phép Phanxicô và các môn đệ được phép
rao giảng bất cứ đâu mà đức giám
mục địa phương đồng ư.
Thánh
Clara, một người bạn của Thánh
Phanxicô, đă sáng lập ḍng "Clara nghèo
hèn," một ḍng nữ Phanxicô, và cũng đă
phát triển mạnh.
Đó
là khởi đầu của cuộc canh tân vĩ
đại nhất lịch sử Giáo Hội Công
Giáo. Nhóm tu sĩ Phanxicô ít ỏi ấy đă phát
triển thành một ḍng tu lớn nhất và có
ảnh hưởng nhất thời Trung Cổ,
vượt xa các đan viện về số lượng
cũng như sự ảnh hưởng. Đời sống
nhân chứng của các tu sĩ ḍng Phanxicô thật
cần thiết trong một thời đại mà
Giáo Hội ngày càng giàu sang và nhiều giáo sĩ
thật hư hỏng. Tuy nhiên, Phanxicô không nh́n
đến các khiếm khuyết của Giáo Hội
hay của giáo sĩ, mà ngài vẫn hết ḷng trung
thành và yêu quư Giáo Hội. Mặc dù ngài rất
khó nghèo và khắc khổ, Thánh Phanxicô luôn luôn
yêu đời, vui thích trong các tạo vật của
Thiên Chúa và đặc biệt sùng kính nhân tính của
Đức Giêsu. Ngài sáng chế ra hang đá Giáng Sinh,
và không như những người lạc giáo thời
ấy, ngài đặc biệt yêu quư bí tích, nhất
là bí tích Thánh Thể. Khi gần chết, Thiên Chúa
đă ban cho ngài năm vết thương của
Đức Kitô trên thân thể -- là một món quà
thích hợp cho những ai yêu mến Đức Kitô bị
đóng đinh. Ngài từ trần năm 1226, và chỉ
hai năm sau, ngài đă được phong thánh.
Thánh
Đaminh Guzman là người Tây Ban Nha sinh năm 1170.
Sau khi được thụ phong linh mục, ngài lưu
tâm đến việc hoán cải những người
bị ảnh hưởng của lạc giáo
Albigensian (người Cathar). Ngài nhận thấy rằng,
người ta chỉ trở lại đạo qua sự
rao giảng hùng hồn nhờ vào sự huấn luyện
kỹ càng cùng với một đời sống chứng
nhân đơn sơ và nghèo hèn. Vào năm 1216, các
môn đệ của ngài được Đức
Giáo Hoàng Honorius III chấp nhận là Ḍng Thuyết
Giáo, sau khi họ du nhập số quy luật của
Thánh Augustine. Thánh Đaminh rất yêu mến Thiên
Chúa. Ngài thường nhỏ lệ khi rao giảng
hay khi dâng Thánh Lễ, và ngài kêu gọi các môn
đệ chỉ nói về Chúa và với Chúa. Ngài
từ trần năm 1221 và được phong thánh
năm 1234. Cũng giống như Ḍng Phanxicô, Ḍng
Đaminh trở nên một nguồn canh tân lớn lao,
hoán cải người lạc giáo, và chỉnh
đốn các hiểu biết sai lầm trong thế
kỷ mười ba. Các ḍng tu khác, tỉ như ḍng
Camêlô và ḍng Augustine, cũng đă thôi thúc Giáo Hội
trên con đường canh tân của thế kỷ
này.
4. Thần Học, Sự
Hiểu Biết và Văn Hóa Mới. Thế kỷ mười
ba cũng là tột đỉnh của tư duy và văn
hóa thời Trung Cổ. Điều này được
khởi sự từ thế kỷ mười một
với việc thành lập các trường của
địa phận và của thành phố. Vào khoảng
1170 một trung tâm mới cao hơn về học
thuật xuất hiện - trường đại học.
Lúc đầu, đại học được coi
là tổ chức hay hiệp hội của các học
giả, mà trước tiên thu hút hàng giáo sĩ và
được Giáo Hội hỗ trợ về tài
chánh. Hai đại học lớn được thành
lập ở Balê (chuyên về thần học) và
ở Bologna (về luật), nhưng sau đó không
lâu là các trường Oxford (1200), Cambridge (1209),
Salamanca (1220), Naples (1224), và các trường khác. Y học,
luật học và thần học là các môn chính yếu,
và thần học được coi là nữ hoàng
của kiến thức. Phương cách của thần
học chủ yếu là nghiền ngẫm (lectio)
các sách thiêng liêng, nhưng với công tŕnh chuyển
dịch các văn bản của triết gia Hy Lạp
Aristotle từ tiếng Ả Rập sang tiếng
Latinh, một phương pháp mới về lư luận
để học hỏi thần học được
khai sinh. Các thần học gia muốn chứng minh rằng
đức tin Kitô Giáo th́ hợp lư và sự hiểu
biết tự nhiên rất thích hợp với quan
điểm Kitô Giáo về vũ trụ và thực
thể, và ngay cả hỗ trợ cho đức tin
Kitô Giáo.
Ba
vị thần học sáng giá của thế kỷ
xuất thân từ các ḍng Khất Thực: một
tu sĩ ḍng Phanxicô,
Thánh
Bônaventura (1217-74), và hai tu sĩ ḍng Đa Minh,
Thánh
Albert Cả (1200-80) và
Thánh
Tôma Aquinas (1225-74). Thánh Bônaventura áp dụng truyền
thống lâu đời để t́m hiểu thần
học bằng phương cách bí nhiệm, trong khi
dùng lư lẽ để hỗ trợ cho sự xác
thực của truyền thống và đức tin.
Thánh Albert Cả là một trong những người
đầu tiên cực lực hỗ trợ tư
duy của Aristotle, mà trước đây đă bị
Rôma cấm chỉ trong các trường đại
học v́ có nguồn gốc ngoại giáo. Người
học tṛ nổi tiếng của Thánh Albert, là
Tôma Aquinas, hăng hái bảo vệ giá trị của
Aristotle và h́nh thành một hệ tư tưởng
bao gồm Phúc Âm, các Giáo Phụ, và lư luận của
Aristotle trong một hệ thống hiểu biết vĩ
đại, tổng hợp toàn thể mặc khải
Kitô Giáo qua đức tin được khai sáng bởi
lư lẽ. Kiệt tác của Thánh Tôma là cuốn Tổng
Luận Thần Học (Summa
Theologica, 1266-74), được coi là cực
điểm của thiên tài và thật sáng sủa.
Trái với điều tin tưởng thông thường,
Thánh Tôma không bao giờ tách rời đức tin với
lư lẽ. Lư lẽ giúp con người hiểu biết
cách thâm sâu các chân lư đức tin mà Thiên Chúa
đă mặc khải. Tuy nhiên, Thánh Tôma Aquinas không
phải là người nổi tiếng trong thời
ấy. Thần học gia và triết gia
John
Duns Scotus (1266-1308), một tu sĩ Phanxicô người
Tô Cách Lan, có đông các môn đệ hơn. Ngài
bất đồng với Thánh Tôma về vài điểm
quan trọng, nhưng đồng ư với thánh nhân
về tính cách nhận thức, hoặc hiểu biết
được của mọi sự.
Các
trường đại học không chỉ là bằng
chứng cho sự tiến bộ của văn minh Tây
Phương mà c̣n có các đại văn hào, tỉ
như Dante Alighieri (1265-1321). Tác phẩm Divine
Comedy (Hài Kịch Thần Thánh) của Dante, một
quan điểm văn học về hoả ngục,
luyện ngục và thiên đàng, là tuyệt tác văn
chương của mọi thời đại. Roger
Bacon (1214-92), một tu sĩ ḍng Phanxicô, là người
tiên phong trong lănh vực khoa học thực nghiệm.
Các thánh đường kiểu Gôtích vút cao lên trời,
và các nghệ nhân sáng tác nhiều tác phẩm vĩ
đại. Thế kỷ mười ba quả thực
là cao điểm của đời sống Giáo Hội
và văn minh Tây Phương thời Trung Cổ.
Cuối Thời Trung Cổ, Phong Trào Cải Cách và Phản Cải Cách (1300-1650)
T
hế
kỷ mười ba là thế kỷ đầy
kết quả cho Kitô Giáo và cho Giáo Hội cũng
như các giáo hoàng. Tuy nhiên, giai đoạn từ
1300 đến 1500 là thời kỳ suy thoái.
Giai đoạn nhiều khó khăn này c̣n
được ghi dấu bằng trận dịch
hạch Tử Thần Đen mà nó đă càn quét
Âu Châu từ năm 1348 và đă giết chết
một phần ba dân số Âu Châu. Tuy nhiên
Thiên Chúa vẫn hoạt động trong Giáo Hội
Công Giáo và trong xă hội giữa biết bao thử
thách.
1. Giáo Triều Avignon. Triều đại
giáo hoàng sôi nổi của Đức Boniface VIII
(1294-1303) được tiếp theo bằng một
giai đoạn trên bảy mươi năm,
1306-76, mà trong thời gian đó các giáo hoàng cư
ngụ ở Avignon, nước Pháp thay v́
ở Rôma. Đức Clêmentê V (làm giáo hoàng từ
1305 đến 1314) di chuyển đến Avignon
để tránh áp lực chính trị của
Ư, và của các hoàng tộc Rôma thường
gây hấn. Vua Philip của Pháp hứa che chở
và không phá rối để đổi lấy
một vài ảnh hưởng trong chính sách của
đức giáo hoàng. Mặc dù các giáo hoàng
ở Avignon vẫn giữ vai tṛ độc
đáo của các ngài là vị chủ chăn
của toàn thể dân Chúa, nhưng tất cả
thế giới c̣n lại đều nghi ngờ
rằng các giáo hoàng này chỉ lên tiếng
nói v́ lợi ích cho nước Pháp. Thật vậy,
khi tám giáo hoàng trong thời kỳ này đều
là người Pháp th́ sự kiện ấy chỉ
như thêm dầu vào ngọn lửa hồ
nghi.
Giáo
triều Avignon đă bị phê phán bởi các
thánh và các thi hào, như Petrarch, và c̣n bởi
Thánh
Bridget ở Thụy Điển (1303-73) và
Thánh
Catarina ở Siena (1347-80). Các ngài là nữ
ngôn sứ mà Thiên Chúa đă dùng để
thuyết phục đức giáo hoàng phải
trở về Rôma. Thánh Bridget là một người
vợ và là mẹ của tám người con;
những thị kiến ngài nhận được
từ Thiên Chúa đă thôi thúc các giáo hoàng
ở Avignon phải thay đổi lối sống
xa hoa và lo cho Giáo Hội. Thánh Catarina ở Siena
hứa giữ ḿnh đồng trinh ngay khi c̣n nhỏ
và đă gia nhập ḍng Ba Đa Minh. Ngài tận tụy
phục vụ người nghèo cho đến
khi Thiên Chúa gọi ngài làm ngôn sứ. Ngài
đă thuyết phục Đức Grêgôriô XI trở
về Rôma năm 1376 và ngài là cố vấn
cho đức giáo hoàng kế vị, là Đức
Urbanô VI. Mới đây, Thánh Catarina được
tuyên xưng là Tiến Sĩ Hội Thánh và
cùng với Thánh Phanxicô Assisi, ngài là quan thầy
của nước Ư.
2. "Đại Phân
Ly" Giữa Các Giáo Hoàng (1378-1417).
Sau khi từ Avignon trở về Rôma không lâu,
Đức Giáo Hoàng Grêgôriô XI từ trần năm
1378. Cái chết của ngài đă đem lại
sự khủng hoảng lớn lao cho Giáo Hội.
Các hồng y tụ họp ở Rôma, và dưới
áp lực của người Rôma, các ngài
đă khôn ngoan tuyển chọn một hồng
y người Ư làm giáo hoàng, là Đức Urbanô
VI. Nhưng trước sự kinh ngạc của
họ, Đức Urbanô đă trừng trị các
hồng y, luôn lải nhải đ̣i hỏi họ
cải tổ và ngay cả tra tấn hồng y
nào bất đồng quan điểm. Các hồng
y người Pháp, sau khi phủ nhận giá trị
việc tuyển chọn Đức Urbanô, đă bỏ
về Rôma và chọn một hồng y người
Pháp là "ngụy giáo hoàng," Clêmentê VII. Sự
kiện này bắt đầu một trang sử
buồn thảm của Giáo Hội Công Giáo.
Đó là thời gian có đến hai, và sau này ba
người tự xưng là giáo hoàng chính cống,
mỗi người được sự hỗ
trợ của một số quốc gia và đế
quốc khác nhau.
Vấn
đề được đặt ra là làm
sao giải quyết khó khăn này. Không một
giáo hoàng nào chịu từ chức, và các hồng
y, giám mục cũng chia rẽ trong sự trung
thành của họ. Một số thần học
gia, tỉ như Jean Gerson, là hiệu trưởng
Đại Học Ba Lê, trước đây chủ
trương rằng thẩm quyền của một
công đồng cao hơn thẩm quyền của
đức giáo hoàng; và ngài đă triệu tập
một công đồng để giải quyết
vấn đề. Sau cùng Công Đồng Constance
(1414-18) đă truất phế hai giáo hoàng, khuyến
khích vị thứ ba từ chức, và tuyển
chọn một giáo hoàng mới, Đức Martin V
(1417), là người được toàn thể
Giáo Hội công nhận. Cuộc đại phân
ly chấm dứt, nhưng măi cho đến khi
uy tín của đức giáo hoàng được
khôi phục th́ sự phân ly mới thực sự
kết thúc. Hậu quả của giáo triều
Avignon và sự phân ly là không bao giờ chúng ta
thấy được vị giáo hoàng thời
Trung Cổ có uy thế như Đức Innôxentê
III hoặc Boniface VIII. Nhiều Kitô Hữu bắt
đầu coi công đồng có uy thế hơn
đức giáo hoàng, nhưng điều này
không đúng. Công Đồng Constance là một ngoại
lệ, chứ không phải là quy tắc,
được đưa ra như một phản
ứng trước t́nh trạng nguy kịch của
Giáo Hội. Sau công đồng này, các giáo
hoàng tiếp tục xác nhận quyền bính
và vai tṛ của các ngài trong Giáo Hội như
trước đây.
3. Những Thử
Thách của Giáo Hội.
Các khó khăn hiển nhiên có liên hệ đến
vấn đề giáo hoàng đă khiến một
số người Công Giáo đặt vấn
đề và có khi từ chối thẩm quyền
của Giáo Hội. Một phê b́nh gia thức
thời là John Wyclif (1330-84), một học giả
của Oxford đă tấn công học thuyết
về sự biến thể của Ḿnh Thánh
và các tín điều khác. Mặc dù ông không
nghiên cứu về Kinh Thánh, bản dịch của
ông là một trong những công tŕnh nổi tiếng.
Tư tưởng của Wyclif ảnh hưởng
đến nhà cải cách Tiệp Khắc, John
Hus (1369-1415). Hus là một linh mục Công Giáo bị
vạ tuyệt thông năm 1412 v́ từ chối
giáo huấn Công Giáo về các bí tích và thẩm
quyền của đức giáo hoàng. V́ ông tấn
công Giáo Hội Công Giáo, Công Đồng Constance
đă ra lệnh thiêu sống ông vào năm 1445
v́ tội lạc giáo.
Sự
chỉ trích Giáo Hội và việc nổi loạn
chống với giới thẩm quyền ngày
càng gia tăng về số lượng cũng
như tính cách trầm trọng. Ngay cả một
chi nhánh của ḍng Phanxicô mà họ tự cho
là Linh Đạo Phanxicô đă tách khỏi Giáo Hội
Công Giáo, v́ họ không thể chấp nhận
quyền bính của Giáo Hội khi Ṭa Thánh giảm
bớt tính cách khắt khe của quy luật
Thánh Phanxicô về vấn đề sở hữu
sách vở hay làm chủ tài sản. Họ tiên
đoán Giáo Hội đă đến lúc tận
cùng.
Một
thử thách khác của Giáo Hội vào cuối
thời Trung Cổ là sự suy thoái của thần
học Kinh Viện mà trước đây đă
từng đạt đến cao điểm
trong thời Thánh Tôma Aquinas và John Duns Scotus. Mặc
dù trong thời gian này cũng có các thần học
gia sáng giá và thánh thiện, tỉ như
Nicholas ở Cusa (1401-64) là người đă viết
cuốn The Vision of
God, nhưng nói chung thần học Tây Phương
đang trên đà suy thoái. Các thần học
gia không c̣n nghiên cứu Kinh Thánh và các Giáo Phụ,
nhưng đă dành thời giờ để xem
xét và b́nh luận về các nhận định
của nhau. Nhiều người c̣n tham dự
vào các cuộc tranh luận vô bổ -- tỉ
như "bao nhiêu thiên thần có thể nhảy
múa trên đầu một cây kim?" -- các
tranh luận ấy kích thích trí tuệ nhưng
làm nguội lạnh tâm hồn. Ngay cả xuất
hiện một phái triết thần mới gọi
là Nominalism (thuyết duy danh), do William ở
Ockham (1280-1349) khởi xướng, muốn tách
biệt các lănh vực của đức tin và
lư lẽ thay v́ coi chúng hỗ tương nhau
như Thánh Tôma Aquinas và các học giả Kinh
Viện lỗi lạc khác từng chủ trương.
4. Thức Tỉnh Tâm
Linh. Khi thần học
và triết học ngày càng khô khan và tách khỏi
đời sống con người th́ lại
có khuynh hướng nh́n lại tâm hồn
để t́m cách thức tỉnh tâm linh. Nổi
tiếng vào cuối thời Trung Cổ là các
nhà thần nghiệm Kitô Giáo, họ t́m cách
đến với Thiên Chúa qua tâm hồn hơn
là trí tuệ. Meister Eckhart (1260-1327), một tu sĩ
Đaminh người Đức, là một trong các vị
thần nghiệm đầu tiên và có ảnh hưởng
nhất, tuy nhiên một số học thuyết
của ông bị giới chức quyền Giáo
Hội nghi ngờ. Một năm trước
khi chết, năm 1326, Eckhart bị kết tội
lạc giáo.
John
Tauler (1300-61) và Henry Suo (1245-1366) cả hai đều
là linh mục ḍng Đaminh và là môn đệ của
Eckhart. Tauler chủ trương đời sống
chúng ta phải phản ánh đời sống
Ba Ngôi. Cuốn Sách Nhỏ Về Sự Khôn Ngoan Vĩnh Cửu
của Suo được coi là sản phẩm
tinh tuư nhất của khoa thần nghiệm Đức.
Văn sĩ thần nghiệm John van Ruysbroeck
(1293-1381) được một số người
coi là vị thánh vĩ đại người
Flemin. Anh Quốc cũng có thể tự hào về
nhiều nhà thần nghiệm: Julian ở Norwich
(1342-1416) viết cuốn Mặc
Khải của T́nh Yêu Thiên Chúa; cuốn Bậc
Tuyệt Hảo của Walter Hilton (c. 1395) là
sự tŕnh bầy rơ ràng nhất và quân b́nh
nhất của đời sống nội tâm
vào cuối thời Trung Cổ.
Một
phản ứng khác đối với sự nguội
lạnh của thần học thời bấy
giờ là phong trào
Devotio Moderna, loại đạo đức mới,
xuất hiện từ cuối thế kỷ
mười bốn và lan sang thế kỷ mười
lăm. Các sáng tác đạo đức thời
ấy tránh tranh luận thần học nhưng
lại không phải là loại thần nghiệm.
Đó là một phương cách thực tiễn
suy niệm về cuộc đời Chúa Giêsu
theo một phương cách có thứ tự. Cuốn
Gương Đức Kitô của Thomas à Kempis là một
tác phẩm kinh điển của phái này.
Gerard Groote (1340-84) là một trong những người
hết sức cổ vơ phong trào đạo
đức mới và khích lệ thành lập một
tu hội đời được gọi là
Anh Em của Đời Sống Chung, và ḍng Kinh Sĩ
Thánh Augustine ở Windesheim. Một số ḍng tu
khác đă canh tân vào thời kỳ này, tỉ
như các tu sĩ Phanxicô Nghiêm Thủ dưới
sự dẫn dắt của
Thánh
Bernadine ở Siena (c. 1444) và
Thánh
Gioan ở Capistrano (c. 1456). Một số ḍng
của các đan sĩ Biển Đức và Kinh Sĩ
Augustine cũng canh tân, kể cả ḍng mà
Martin Luther gia nhập sau này.
Trong
Kitô Giáo Đông Phương, một phương
pháp cầu nguyện được gọi là hesychasm, hay cầu nguyện bằng con tim, trở
nên phổ thông trong thế kỷ mười
ba và mười bốn. Gregory Palamas (1296-1359), một
vị thần nghiệm vĩ đại của
Giáo Hội Đông Phương, và các người
khác đă cổ vơ h́nh thức cầu nguyện
này gồm việc lập đi lập lại
cách liên tục tên Đức Giêsu (hoặc một
lời nguyện ngắn như "Lạy Đức
Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa, xin thương xót
tôi"). Những lời nguyện ấy nhịp
nhàng với hơi thở. Mục đích là cầu
nguyện liên lỉ, luôn luôn nhắm đến
Thiên Chúa. Một hợp tuyển văn bản
của các Giáo Phụ Đông Phương thường
được gọi là Philokalia
làm nền tảng cho sự tu đức này.
Trong
các vị thần nghiệm và thụ khải của
cuối thời Trung Cổ có
Thánh
Jeanne d'Arc (1412-31). Ngay từ khi mười ba
tuổi, thánh nữ đă được nghe
tiếng các thiên thần và các thánh mà các vị
ấy cho biết sứ vụ của thánh nữ
là giúp vua Charles VII nước Pháp thoát khỏi
sự kiềm tỏa của Anh. Tin rằng thị
kiến của Jeanne d'Arc là có thật, nhà vua
đă giao cho thánh nữ một đạo quân
để tái chiếm các thành luỹ của
Pháp. Trong một cuộc chiến, thánh nữ bị
bắt và bị giáo quyền Anh kết án là lạc
giáo và bị thiêu sống. Hai mươi
lăm năm sau, thánh nữ được minh
oan, và năm 1920, ngài được tuyên xưng
là thánh. Thánh Jeanne d'Arc quả thật là vị
thánh đặc biệt và ngoại lệ trong
thời kỳ xáo trộn.
5. Những Nguyên Do Căn
Bản Cuộc Cải Cách Tin Lành. Có những bùng nổ
thức tỉnh tâm linh vào cuối thời Trung
Cổ, nhưng thảm kịch dẫn đến
cuộc Cải Cách là sự cải tổ và
canh tân tâm linh ấy không ảnh hưởng ǵ
đến ḍng sinh lực của Giáo Hội
Công Giáo. Từ các giáo hoàng cho đến
thường dân đều có những hành
động cản trở sự canh tân. Các
giáo hoàng phải đương đầu với
sự phát sinh của chủ nghĩa dân tộc
và phải đối phó với các thái tử,
là những người chỉ cho phép Giáo Hội
địa phương được thi hành sự
cải tổ với một giá nào đó. Các
giáo hoàng buộc phải kư kết các thoả
ước với các quốc gia, và các nhà cầm
quyền đạt được nhiều lợi
nhuận trong việc thao túng Giáo Hội. Khi
t́nh h́nh tài chánh của đức giáo hoàng
ngày càng tệ hại, họ đă nghĩ ra các
phương cách gia tăng lợi tức cho
đức giáo hoàng và đă đưa đến
các hậu quả thật xấu xa. Trong thời
kỳ này, nhiều nhà cầm quyền thế
tục cũng trở nên giám mục hay tu viện
trưởng nhằm kiểm soát Giáo Hội
và kiếm lợi tức. Các giáo hoàng t́m cách
lấy lại tài chánh từ các nhà cầm quyền
thế tục bằng cách gia tăng tiền
thuế nộp cho đức giáo hoàng về
các chức vụ trong giáo hội. Nếu các
thái tử muốn kiểm soát Giáo Hội th́
ít nhất họ phải trả một giá nào
đó. Thói buôn thần bán thánh này luôn luôn bị
kết án là trái với luân lư. Một số
nhà cầm quyền dân sự mua đến hai
ba chức vụ trong Giáo Hội (pluralism) và họ
không màng ǵ đến việc chăm sóc giáo
dân nhưng họ thuê mướn người
khác làm công việc này (absenteeism). Do đó,
các giám mục trong Giáo Hội thường là
những người giầu có hoặc thuộc
giới quư tộc, họ không lo lắng ǵ
đến Giáo Hội nhưng dùng chức vụ
này để được lợi lộc cho
ḿnh. Khi cần tài chánh, họ gia tăng lệ
phí các trung tâm hành hương hoặc bán các
ân xá. Ân xá được Giáo Hội ban phát
như một đảm bảo cho người
tín hữu khỏi phải chịu hậu quả
của tội lỗi (tỉ như, h́nh phạt
nơi luyện tội) sau khi chết. Lẽ ra
ân xá được ban phát như để nh́n
nhận đời sống tốt lành của
người tín hữu, nhưng vào cuối thời
Trung Cổ, ân xá được buôn bán như
một món hàng. Tetzel là một tu sĩ ḍng Đa
Minh chuyên môn bán ân xá đến độ
Luther phải nổi nóng và chống đối
Giáo Hội. Tetzel thường rêu rao rằng:
"Khi đồng tiền leng keng rơi vào kho
bạc th́ một linh hồn lại dzọt
vào thiên đàng."
Hàng
linh mục và phó tế của Giáo Hội Công
Giáo cũng trở nên tồi tệ v́ thiếu
giáo dục và thối nát khắp nơi. Nhiều
tu sĩ nghèo và hủ hóa đă ăn ở với
các phụ nữ bất kể luật độc
thân của Giáo Hội. Ngay cả các ḍng Khất
Thực cũng mất nhiệt huyết và trở
nên chủ đề cho người đời
châm biếm, các tu sĩ này bị mỉa mai
là đối thủ của phường trộm
cướp, và là các người ăn mày có
chính nghĩa khi họ chỉ thích xin tiền
chứ không muốn xin thực phẩm.
Giáo
dân Công Giáo cũng không màng đến việc
canh tân trong Giáo Hội. Đời sống đạo
đức của họ là việc sùng kính bề
ngoài đối với các thánh và Đức
Maria, thích đi hành hương để
được ân xá mà không cần hiểu biết
chân lư căn bản của đức tin Kitô
Giáo. Nếu các giám mục và linh mục lười
biếng trong việc giảng dạy th́ không
thể đổ lỗi cho người giáo
dân là thiếu hiểu biết.
Làm
thế nào Giáo Hội Công Giáo có thể cải
tổ trong một t́nh trạng đáng buồn
như vậy? Các giáo hoàng th́ bận tâm với
vấn đề chính trị, và hầu hết
các giáo hoàng từ giữa thế kỷ mười
lăm trở đi, đều lưu tâm đến
việc hỗ trợ phong trào Phục Hưng,
là một làn sóng văn hóa và học thuật
đang càn quét Âu Châu. Trong một khía cạnh
nào đó, đây là điều rất tốt.
Các giáo hoàng thời Phục Hưng muốn chứng
tỏ rằng Giáo Hội luôn hậu thuẫn
cho sự học hỏi, nghệ thuật, âm nhạc,
và văn chương. Đức Giáo Hoàng Julius II
đặt viên đá đầu tiên cho Đền
Thánh Phêrô ở Rôma và thuê Bernini, Raphael, và
Michaelangelo -- những nghệ nhân vĩ đại
của thế giới thời ấy -- cung cấp
các tác phẩm điêu khắc, hội họa,
kiến trúc cho thánh đường. Tuy nhiên,
phí tổn lớn lao này đă khiến các
giáo hoàng không c̣n lưu tâm đến t́nh
h́nh tâm linh kiệt quệ của Giáo Hội.
Một
vài giáo sĩ và thái tử thúc giục các
giáo hoàng tổ chức công đồng để
canh tân Giáo Hội. Sau nhiều lần do dự,
v́ sợ rằng công đồng sẽ cướp
quyền của đức giáo hoàng hoặc sợ
bị nhà cầm quyền dân sự kiểm
soát, sau cùng Đức Giáo Hoàng Julius II đă triệu
tập Công Đồng Latêranô V ở Rôma năm
1512. Công đồng chấm dứt năm 1517,
dưới thời Đức Giáo Hoàng Lêô X, ngay
khi sự Cải Cách Tin Lành bắt đầu
nhen nhúm. Công đồng đă phê chuẩn nhiều
sắc lệnh canh tân có thể ngăn chặn
được cuộc Cải Cách Tin Lành, nhưng
v́ sự thiển cận và tính cách trần tục
của Đức Lêô X (làm giáo hoàng từ 1513
đến 1521) nên hầu hết các sắc lệnh
cải tổ của công đồng đă
không được thi hành. Ngoài ra, một số
giám mục của Giáo Hội cũng không màng
ǵ đến chuyện canh tân.
Chúng
ta có thể tự hỏi tại sao không có người
Công Giáo nào dám lên tiếng, đ̣i hỏi
Giáo Hội phải cải tổ. Chắc chắn
là có. Ngoài những người khởi đầu
cuộc canh tân tâm linh và cải tổ ḍng tu,
c̣n có một tổ chức Kitô Giáo được
gọi là Humanist (Nhân Bản). Được dẫn
đầu bởi học giả Erasmus ở
Rotterdam (1465-1536), các thành viên Humanist là những
trí thức Công Giáo, họ buồn v́ sự
suy sụp của thần học Kinh Viện và
sự gia tăng của phái Nominalist (hữu
danh vô thực). Họ quyết định khôi
phục tư duy Công Giáo đặt nền tảng
trên Phúc Âm và văn bản của các Giáo Phụ.
Erasmus sáng tác rất nhiều trong lănh vực
này, cũng như cực lực châm biếm lối
sống sai lạc của người Công Giáo.
Tuy nhiên, sự trào phúng và châm biếm cũng
như sự lỗi lạc của Erasmus không
đủ để canh tân Giáo Hội. T́nh trạng
Giáo Hội thời bấy giờ đă đến
lúc mà chỉ có tính khí nóng nẩy và cực
kỳ nghiêm trọng của Martin Luther mới
khích động được việc cải
tổ đến độ lung lay và chia cắt
Kitô Giáo.
1. Martin Luther (1480-1546). Một sử gia
đă viết: "Cuộc Cải Cách xảy ra
không v́ Âu Châu quá trần tục mà là v́ quá đạo
đức." Martin Luther, một người cục
mịch thuộc thành phần nông dân Đức, đă
phát sinh chủ thuyết tôn giáo lư tưởng của
người dân Âu Châu. Ông cũng là một tu sĩ
ḍng Augustine rất nghiêm nhặt và đă chăm chỉ
học hành để trở thành một giáo sư
Kinh Thánh của Đại Học Wittenberg nước
Đức. Khi là tu sĩ, ông không có b́nh an khi cố
gắng xóa bỏ mặc cảm tội lỗi qua sự
sám hối và từ bỏ chính ḿnh, nhưng ông cảm
thấy thoải mái khi nhận thức rằng con
người được công chính hóa chỉ bởi
ḷng tin, như Thánh Phaolô đă giải thích trong thư
gửi tín hữu Rôma. Đây là yếu tố then chốt
đă khiến Luther niêm yết Chín Mươi
Lăm Luận Đề về Ân Xá lên cửa nguyện
đường ở Wittenberg năm 1517. Ông phản
đối người Công Giáo khi lệ thuộc
vào công việc lành, dù bất cứ việc ǵ, kể
cả ân xá, để được cứu độ
và được tha tội.
Điều
cay đắng của Cải Cách Tin Lành là hầu
hết những ǵ Luther tin tưởng và chủ trương
lại là các học thuyết chính trực của
Công Giáo nhưng đă bị biến dạng bởi
sự lạm dụng và thực hành sai lầm trong
Giáo Hội, tỉ như bán ân xá và vụ lợi.
Không may, sự chỉ trích của Luther về những
hủ tục có thực này đă không được
để ư đến. Đức Giáo Hoàng Lêô X chỉ
ra lệnh cho vị bề trên của Luther phải
sửa sai ông, coi đó như một tu sĩ phản
loạn dám đặt lại vấn đề thẩm
quyền ban ân xá của Giáo Hội.
Lúc
đầu, Luther không có ư định từ bỏ
Giáo Hội Công Giáo, nhưng ông cũng từ chối
không rút lại các tuyên bố cho đến khi
được điều trần trước một
hội đồng. Năm 1519, ông đến Leipzig
để gặp thần học gia Johannes Eck. Và Eck
đă đưa đường chỉ lối cho
Luther từ chối thẩm quyền của các giáo
hoàng cũng như các công đồng, và coi Phúc
Âm như nguồn thẩm quyền duy nhất. (Một
trong những thành quả đáng kể sau này của
Luther là việc chuyển dịch Phúc Âm sang tiếng
Đức, nhờ đó, sau khi phát minh ra máy in, mỗi
một người Tin Lành Luther đều có một
quyển Phúc Âm bằng tiếng mẹ đẻ của
ḿnh). Đến lúc này, Luther không c̣n coi ḿnh là một
người Công Giáo nữa; do đó ông viết ba
luận đề khước từ quyền bính của
Giáo Hội Công Giáo và các giáo hoàng, tẩy chay các
bí tích của Giáo Hội (ngoại trừ bí tích Rửa
Tội, Thánh Thể, và giải tội), và ông kêu
gọi các thái tử Kitô Giáo ở Đức hăy
đứng lên thành lập giáo hội tự trị.
Tất cả đă xảy ra đúng như vậy.
Hầu hết các thái tử Đức đều muốn
thoát khỏi thẩm quyền và chế độ
thuế khóa của Rôma, do đó họ ủng hộ
Luther và bổ nhiệm các giám mục cho Giáo Hội
Luther của họ. Tại Nghị Viện ở
Worms năm 1521, Luther bị Giáo Hội Công Giáo
chính thức phạt vạ tuyệt thông với sắc
chỉ Exsurge Domine, và ông đă đốt sắc
chỉ này cũng như một số sách Công
Giáo. Đối với người Công Giáo, sự khước
từ quyền bính Giáo Hội của Luther là một
thảm kịch lớn lao, không chỉ v́ nó khởi
đầu một ngăn cách trong nhiệm thể của
Đức Kitô, nhưng c̣n v́ sự canh tân tích cực
và cần thiết mà lẽ ra Luther đă có thể
hoàn tất trong ḷng Giáo Hội Công Giáo.
V́
cuốn sách này chủ yếu chỉ đề cập
đến lịch sử Giáo Hội Công Giáo, do
đó chúng tôi không đi xa hơn trong việc bành
trướng của Giáo Hội Luther. Tuy nhiên, thật
đầy đủ để nói rằng giáo phái
Luther là h́nh thức Tin Lành gần với Công Giáo
nhất, v́ Luther c̣n giữ lại nhiều khía cạnh
của đức tin và truyền thống Công Giáo,
ngoại trừ những
ǵ ông cho là đối nghịch với Phúc Âm. Các
gịng Cải Cách khác ngày càng tách biệt với
đạo Công Giáo.
2. Jean Calvin (1509-64). Jean Calvin là người
Pháp, và sau khi học thần học và luật
ở Balê khi c̣n trẻ, bỗng dưng ông chuyển
hướng sang các quy tắc của phong trào Cải
Cách được Luther khởi xướng. Sau
đó, Calvin định cư ở Geneva, Thụy
Sĩ, là nơi ông chủ trương sự tổng
hợp thẩm quyền giữa nhà nước và
Giáo Hội, mà địa vị hàng đầu
được trao cho Giáo Hội. Trong thuyết
chính trị thần quyền này, Calvin g̣ ép ra một
lối sống Kitô Hữu nghiêm nhặt và khắc
khổ tương tự như các đan viện
thời trung cổ. John Knox (1513-72) ở Tô Cách Lan,
sau khi đến Geneva, gọi đời sống
đó là "trường phái học hỏi về
Đức Kitô tuyệt hảo nhất trên mặt
đất kể từ thời các tông đồ,"
và ông đă đưa chủ thuyết Calvin về
Tô Cách Lan để trở thành Giáo Hội
Presbyterian.
Văn
bút vĩ đại của Calvin là cuốn Các Tổ Chức Kitô Giáo, nền tảng thần
học của truyền thống Cải Cách. Calvin tẩy
chay mọi tín điều không rơ ràng ghi trong Phúc
Âm và chỉ tập trung đức tin vào Lời
Chúa mà thôi. Giáo đường của ông màu trắng
và thật trống trải. Không có bàn thờ, tượng
ảnh, đàn organ, hay kính mầu. Mọi vết
tích Công Giáo đều bị xoá sạch, ngoại
trừ Phúc Âm. Lư thuyết của Calvin được
tranh luận sôi nổi nhất là Thuyết Tiền
Định, ông cho rằng ngay từ ban đầu Thiên
Chúa đă tiền định cho những ai
được cứu rỗi và những ai bị
luận phạt, do đó, công trạng con người
không có giá trị ǵ. V́ được tiền
định, những người được chọn
chắc chắn sẽ sinh kết quả tốt
đẹp qua sự chính trực và đời sống
tốt lành của họ.
Giấc
mơ hoán cải toàn thể nước Pháp của
Calvin phần nào được thể hiện với
sự bành trướng của phái Huguenot trong thế
kỷ mười bảy.
3. Cuộc "Cải
Cách Triệt Để".
Jean Calvin tách rời khỏi đức tin Công Giáo
một cách triệt để hơn Martin Luther. Tuy
nhiên, lại có những nhóm Tin Lành Cải Cách
tách biệt xa hơn với đức tin Công Giáo.
Huldreich Zwingli (1484-1531) khởi sự một nhà thờ
trong thành phố Zurich, Thụy Sĩ, và chủ trương
rằng Bữa Tiệc Ly chỉ là một bữa
tiệc có tính cách tưởng nhớ, do đó
không có sự hiện diện thực sự của
Đức Kitô. Một cách cay đắng, Luther bất
đồng với Zwingli về điểm này trong
cuộc Hội Đàm ở Marburg năm 1529.
Trước
khi từ trần trong cuộc chiến năm 1531,
Zwingli ra lệnh d́m chết một số người
ở Zurich, là những người nhất định
phải tái rửa tội người lớn và chủ
trương chỉ có sự rửa tội người
lớn mới có giá trị. Những người này
được gọi là Anabaptist (tái tẩy) và họ
đă đi quá xa. Họ từ bỏ Zurich để
thiết lập các cộng đoàn nhỏ bé, sống
khắng khít trong các vùng hẻo lánh ở Moravia về
phía đông. Trong thời gian này, tên Anabaptist
được dùng để chỉ nhiều tổ
chức khác nhau, nhưng chung quy, họ đều
cho rằng tín điều của người Công
Giáo và Tin Lành th́ quá cực đoan. Một người
Anabaptist là Thomas Munzer, đă xách động cuộc
cách mạng nông dân, và "Vua Munster" là John
ở Leiden, đă tấn chiếm một thành phố
và cho phép t́nh dục bừa băi ở đây. Một
vài người Anabaptist vô trách nhiệm này đă
khiến một số Kitô Hữu đích thực bị
bách hại vô cùng dă man, tỉ như những
người Hutterite ở Moravia, mà họ cùng chia sẻ
tài sản và sống một cách êm đềm và
siêng năng, và những người Mennonite ở Ḥa
Lan, là những người theo chủ nghĩa ḥa
b́nh và sống rất khắc khổ. Có lẽ
trong thời kỳ này, những người
Anabaptist chết v́ đức tin nhiều hơn bất
cứ người Kitô Giáo nào khác. Họ bị
bách hại bởi người Công Giáo và cả người
Tin Lành, và họ từ chối việc sử dụng
vũ lực để tự vệ.
4. Cuộc Cải Cách
ở Anh Quốc. Chúng ta
có thể nhận thấy ba gịng Cải Cách Tin
Lành trước đây -- Luther, Calvin và Anabaptist --
ngày càng ít giống với Giáo Hội Công Giáo mà
họ đă tách biệt. Trước đây,
nguyên tắc của Công Giáo là sự
hợp nhất của đức tin, bây giờ
được thay thế bằng nguyên tắc của
Tin Lành là sự tinh tuyền của đức tin, càng ngày
càng có nhiều tổ chức phân lập, mỗi một
tổ chức đều cho rằng ḿnh tinh tuyền
hơn và trung tín hơn với phúc âm của Đức
Giêsu Kitô. Dựa trên nguyên tắc này, sự Cải
Cách đă không thể tránh được việc
phân chia Giáo Hội thành nhiều thực thể
khác nhau. Tuy nhiên, nhận định này không làm
xao xuyến nhiều người Tin Lành mà họ
cho rằng Đức Giêsu đă thành lập một
thực thể vô h́nh,
thiêng liêng bao gồm
tất cả những ai tin vào Đức Kitô theo như
họ nghĩ, chứ không phải một thực
thể hữu h́nh,
có quá tŕnh lịch sử đang hiện diện
trong h́nh thức hợp nhất trên thế giới
như người Công Giáo hiểu biết về
giáo hội. Đây là một trong những khác biệt
quan trọng trong sự hiểu biết giữa người
Công Giáo và hầu hết người Tin Lành.
Tuy
nhiên, giáo hội Cải Cách có quan điểm rất
gần với Công Giáo, ít ra là lúc ban đầu,
đó là Giáo Hội Anh Quốc, Anh Giáo. V́ lư do
luân lư hoặc chính trị, Giáo Hội này
được thành lập bởi Vua Henry VIII của
nước Anh. Trước đó, Henry được
một giáo hoàng đặt làm Người Bảo
Vệ Đức Tin. Sau đó, ông quyết định
li dị người vợ của ḿnh là bà
Catherine ở Aragon, chỉ v́ bà không sinh được
con trai để thừa tự. Đức Giáo Hoàng
Clêmentê VII từ chối không cho phép Henry li dị.
Sau khi Đức Hồng Y Wolsey, là Tổng Giám Mục
của Canterbury, không thuyết phục được
đức giáo hoàng để ban cho nhà vua điều
này, Henry đă cách chức Wolsey năm 1529, và bổ
nhiệm một người bạn tín cẩn là
Sir
Thomas More, một luật sư Công Giáo lên làm
quan chưởng ấn của Anh. Thomas More, một
người Công Giáo trung thành với đức giáo
hoàng, khẳng định rằng ông chỉ chấp
nhận chức vụ này nếu không dính líu đến
vấn đề li dị của nhà vua. Vào năm
1534, khi Henry tự xưng là thủ lănh tối cao của
Giáo Hội Anh và cắt đứt liên hệ với
Rôma, Thomas More đă từ chối không chịu
tuyên thệ trung thành với nhà vua dưới danh
hiệu này, và ông cũng từ chối không cho biết
lư do. Trên phương diện luật pháp, lẽ
ra cuộc đời của Thomas More đă
được b́nh an vô sự, v́ luật lệ của
Anh cho rằng im lặng là đồng ư. Tuy nhiên,
Henry không để sự "sơ hở" của
luật pháp dung túng kẻ chống đối ḿnh,
nhất là một người nổi tiếng trong
nước như Thomas More, do đó Thomas More đă
bị chém đầu vào năm 1535, như một vị
tử đạo v́ đức tin Công Giáo.
John
Fisher, đức giám mục của Rochester cũng
bị chém đầu, sau này cả hai vị đều
được Giáo Hội Công Giáo tuyên xưng là
thánh.
Mặc
dù khởi đầu của Anh Giáo là sự bất
đồng với Công Giáo chỉ ở một
điểm -- thẩm quyền lănh đạo của
đức giáo hoàng -- dưới thời các nhà
lănh đạo sau này, Anh Giáo ngày càng bị ảnh
hưởng của Calvin và càng giống Tin Lành về
phương diện đức tin. Người Công
Giáo trong thế kỷ mười sáu và mười
bảy bị bách hại một cách cay đắng
ở Anh. Những người theo đức giáo
hoàng được coi là phần tử phá hoại
làm suy yếu nhà nước, nhất là sau khi Guy
Fawkes, một người Công Giáo, mưu toan phá vỡ
Nghị Viện Anh nhưng bất thành. Tuy nhiên, sau
nhiều thế kỷ, một phần lớn Anh
Giáo đă trở về với đặc tính của
Công Giáo, và do đó ngày nay, nhiều người
Anh Giáo tự coi họ là người Công Giáo hơn
là người Tin Lành.
Chắc
chắn là Giáo Hội Công Giáo cần phải cải
tổ vào năm 1500, khi bắt đầu nhen nhúm sự
Cải Cách Tin Lành. Có nhiều người Công
Giáo đă cố gắng canh tân Giáo Hội trước
cả Luther và đă đạt được ít
nhiều thành công. Đức Hồng Y Jimenes de Cisceros,
vị lănh đạo Công Giáo Tây Ban Nha từ
1495-1517, đă đem lại nhiều cải tổ
trong Giáo Hội Công Giáo Tây Ban Nha. Ở Ư, tổ
chức Hội Ḍng Về T́nh Yêu Thiên Chúa,
được thành lập ở Genoa năm 1497, là
một hội đoàn do giáo dân tổ chức
để nên thánh và phục vụ tha nhân. Những
người Công Giáo như Erasmus ở Rotterdam và
John Colet ở Anh đă công khai lên tiếng, than thở
về sự suy đồi tâm linh của Giáo Hội
Công Giáo. Công Đồng Latêranô V đă phê chuẩn
nhiều sắc lệnh cải tổ.
Tuy
nhiên, nhiều người Công Giáo, kể cả
đức giáo hoàng, đă không coi trọng việc
cải tổ Giáo Hội cho đến khi các cuộc
cải cách Tin Lành bùng nổ một cách táo bạo
và tách khỏi sự hiệp nhất với Giáo Hội
Công Giáo. Một hậu quả tích cực của Cải
Cách Tin Lành là nó đă làm phát sinh các nỗ lực
cải tổ và canh tân một cách cần mẫn
trong ḷng Giáo Hội Công Giáo. Mặc dù người
Công Giáo không thể đồng ư rằng việc
chia cắt Giáo Hội của Đức Giêsu là chính
đáng, (và do đó cực lực chống đối
các nhà cải cách Tin Lành), các nhà lănh đạo và
giáo dân Công Giáo trong thế kỷ mười sáu
nhận thức rằng họ phải sám hối
v́ đă thất bại trong việc cải tổ.
Họ bắt đầu tha thiết canh tân trong
ḷng Giáo Hội.
1. Canh Tân Qua Các Ḍng Tu. Cuộc Cải Cách
Công Giáo được phát động bởi việc
thành lập các ḍng tu và tổ chức mới, cũng
như việc cải tổ các ḍng hiện có. Một
trong những quan tâm chính yếu của cuộc cải
cách Công Giáo là việc t́m kiếm hàng giáo sĩ
thánh thiện, hăng say và sống độc thân
để dẫn dắt Giáo Hội trong sự canh
tân. Ḍng dẫn đầu là Ḍng Tên, được
sáng lập bởi
Thánh
I-Nhă ở Loyola năm 1534 và được
đức giáo hoàng công nhận vào năm 1539. I-Nhă
là một quân nhân Tây Ban Nha bị thương chân
trong cuộc chiến năm 1521. Trong thời gian b́nh
phục, I-Nhă đă đọc về cuộc đời
Đức Kitô và hạnh các thánh, và điều
ấy đă đem lại cho ngài một niềm
vui lớn lao đến độ ngài quyết
định dành trọn cuộc đời để
phục vụ Thiên Chúa trong Giáo Hội Công Giáo.
Sau khi được giáo dục kỹ lưỡng,
I-Nhă đă tuyển sáu người để thành
lập một tu hội -- trong đó có
Thánh
Phanxicô Xaviê, một nhà truyền giáo nổi tiếng.
Bất kể những nghi ngờ thường xuyên
của Ṭa Thẩm Tra, sau cùng tu hội của I-Nhă
đă được đức giáo hoàng chuẩn
nhận. Vâng phục Giáo Hội Công Giáo và đức
giáo hoàng là đặc điểm của Ḍng Tên.
Nhà ḍng khởi sự bằng việc giáo dục
người mù chữ và người nghèo, nhưng
sau đó vài năm nhà ḍng dạy cả các thái tử
và vua quan. Các tu sĩ Ḍng Tên cũng là các nhà truyền
giáo vĩ đại; Thánh Phanxicô Xaviê đă
đem Tin Mừng đến cho Ấn Độ và Nhật
Bản năm 1541. Sau này, việc bảo vệ
đức tin là công việc chính của các cha
Ḍng Tên.
Thánh Phêrô
Canisius ở Đức đă viết sách giáo lư
Công Giáo đến nỗi người Tin Lành cũng
phải khen ngợi.
Thánh
Robert Bellarmine là một thần học gia nổi
tiếng và là người hướng dẫn cuộc
canh tân của Công Đồng Triđentinô. Sau cùng, cuốn
Rèn Luyện Tâm Linh của
Thánh I-Nhă trở thành kinh điển của linh
đạo Kitô Giáo và là nền tảng cho các cuộc
tĩnh tâm của Ḍng Tên cũng như để
nhận thức tâm linh.
Mặc
dù Ḍng Tên trở nên ḍng lớn nhất và có
ảnh hưởng nhất của cuộc cải cách
Công Giáo, nhiều nhà ḍng khác cũng góp phần
canh tân Giáo Hội Công Giáo. Trong số này có Ḍng
Capuchin -- một nhánh biến cải của Ḍng
Phanxicô và chỉ đứng sau Ḍng Tên về sự
ảnh hưởng -- Ḍng Thêatinô, Ḍng Sômasca, và
Ḍng Thánh Phaolô (Barnabites). Các ḍng tu nữ, như các
nữ tu Ursulin (1535), cũng có ảnh hưởng
trong sự canh tân Giáo Hội, cũng như các hội
ḍng (Oratory) -- là nhóm người cùng chí hướng
để cầu nguyện và phục vụ mà trong
đó có cả giáo dân. Hội ḍng của
Thánh
Philip Nêri, thành lập ở Rôma năm 1517, rất
nổi tiếng và rất có kết quả. Thánh
Philip Nêri, vị thánh vui vẻ, quan thầy của
giới trẻ và là nguồn cảm hứng cho mọi
Kitô Hữu.
2. Công Đồng Canh
Tân: Công Đồng Triđentinô (1545-63) và Các Hậu
Quả. Mặc dù các tổ
chức nói trên có ảnh hưởng tích cực,
Giáo Hội Công Giáo vẫn cần ngồi lại với
nhau để t́m cách canh tân qua các phương cách
của một công đồng, nơi quy tụ các
giám mục. Các giám mục cần đồng ư với
nhau về cách đáp ứng với cuộc Cải
Cách Tin Lành và những tiến tŕnh cần thiết
để cải tổ và canh tân Giáo Hội Công
Giáo. Sau nhiều lần tŕ hoăn, Đức Giáo Hoàng
Phaolô III đă khai mạc Công Đồng Triđentinô
năm 1545. Mặc dù nhiều nhà lănh đạo Công
Giáo, tỉ như Đức Hồng Y Gaspar Contrarini,
t́m cách hoà giải Giáo Hội Công Giáo với các
giáo phái Tin Lành khác nhau, nhưng vào năm 1545, sự
tách biệt giữa Công Giáo và Tin Lành c̣n quá sâu
đậm và quá đau ḷng để có thể hy
vọng một sự hợp nhất trong Giáo Hội
của Đức Kitô ở Tây Phương. Do đó,
Công Đồng Triđentinô bắt đầu làm sáng
tỏ và xác định những ǵ là giáo huấn
của Giáo Hội, nhất là những điểm
không được Tin Lành thừa nhận. Triđentinô
xác nhận đức tin Công Giáo trong bảy bí
tích do Đức Kitô thiết lập; sự công chính
hóa của một người là bởi đức
tin được thể hiện qua công việc tốt
lành hay bác ái; Thiên Chúa mặc khải cho Giáo Hội
qua Phúc Âm và truyền
thống tông đồ; và bản chất của
Thánh Lễ là một sự tưởng nhớ hay
tái diễn sự hy sinh duy nhất của Đức
Giêsu trên đồi Canvê xưa. Công Đồng Triđentinô
c̣n chấn chỉnh nhiều lạm dụng bị
người Công Giáo cũng như Tin Lành lên án.
H́nh thức mua ân xá bị hủy bỏ và đề
cao việc sùng kính các thánh và Đức Maria một
cách thích hợp. Một trong những thành quả
quan trọng của Công Đồng là h́nh thành hệ
thống đào tạo chủng sinh. Mỗi một
giáo phận sẽ thiết lập một chủng
viện để đào tạo và giáo dục các
linh mục. Kết quả là các linh mục triều
có học thức hơn và tâm hồn thanh khiết
hơn để rao giảng Phúc Âm và là gương
sáng cho giáo dân.
Trước
Công Đồng Triđentinô đă có nhiều công
đồng khác lưu tâm đến việc canh tân
Giáo Hội Công Giáo. Nhưng Triđentinô thật
khác biệt, v́ hầu hết các sắc lệnh cải
tổ đều được tiến hành và có
hiệu lực. Mặc dù nhiều nhà cầm quyền
và nhiều quốc gia đă tách rời khỏi
Giáo Hội Công Giáo v́ hậu quả của sự
Cải Cách Tin Lành, một cách tổng quát, những
người c̣n trung thành với Công Giáo đều
tích cực hỗ trợ sự canh tân đạo Công
Giáo. Hầu hết các giáo hoàng từ cuối thế
kỷ 16 trở về sau đều coi sự cải
tổ và canh tân tâm linh là điều tiên quyết,
cũng như các giám mục, tỉ như
Thánh
Charles Borromeo, là tổng giám mục của Milan từ
1565 đến 1585. Thần Khí của Đức Kitô
và tin mừng của Người lại chan ḥa một
cách sung măn qua Giáo Hội Công Giáo và được
thấy rơ qua vị thủ lănh trần thế và mọi
phần tử của Giáo Hội.
Đáng
buồn là v́ hậu quả của sự Cải
Cách Tin Lành, Giáo Hội Công Giáo giờ đây
không c̣n tính cách hoàn vũ như trước nữa.
Giáo Hội phải thắt chặt kỷ luật hơn
và nhận ra căn tính của ḿnh, qua việc rút
ra khỏi các sinh hoạt trần tục đến
một mức độ nào đó để xác
định lối sống và căn tính của
Giáo Hội. Một số người nói rằng
Giáo Hội Công Giáo trở nên một giáo hội
thành tŕ -- biết rơ về căn tính của ḿnh
nhưng ở thế thủ v́ sự chống đối
của các giáo phái Tin Lành.
Tuy
nhiên, một cái nh́n khác về Giáo Hội Công
Giáo sau Cải Cách là hăy coi đó như một giáo
hội đă được thanh luyện, canh tân,
và phản ánh đời sống Đức Kitô rơ
ràng hơn. Đó là một mùa xuân mới, mùa hoa
đức tin bừng nở và nhiều người
Công Giáo đạo đức hơn. Việc sùng
kính Đức Maria và các thánh được thanh lọc
và canh tân. Công Đồng Triđentinô khuyến khích
người Công Giáo siêng năng rước lễ
-- tối thiểu một tuần một lần -- và
thường xuyên đi xưng tội. Việc thờ
phượng Thiên Chúa trong Bí Tích Thánh Thể
được khuyến khích qua các giờ chầu.
Tuy Thánh Lễ vẫn c̣n được cử hành
bằng tiếng Latinh hơn là tiếng địa
phương, các sách lễ và những phương
tiện sùng kính khác đă giúp giáo dân tham dự
Thánh Lễ sốt sắng hơn.
3. Các Vị Thần
Nghiệm Công Giáo và Các Thánh Hoạt Động Xă Hội. Thời kỳ cực
lực canh tân này c̣n được ghi dấu bởi
sự xuất hiện đông đảo các vị
thần nghiệm và các thánh. Khoa thần nghiệm
là phương cách nhận biết Thiên Chúa một
cách trực tiếp qua tâm trí hay linh hồn, nhận
biết Thiên Chúa bằng con tim. Các vị lănh đạo
Công Giáo rất e dè về khoa thần nghiệm, v́
sợ rằng khi quá chú trọng đến cảm
nghiệm hay tâm t́nh cá nhân, rất có thể người
giáo dân không nhận ra đó là sự lừa gạt
của ma qủy hay ác thần. Tuy nhiên, Thiên Chúa
đă tạo nên nhiều vị thần nghiệm vĩ
đại trong thời kỳ này, nhất là ở
Tây Ban Nha.
Thánh
Têrêsa ở Avila (1515-82) là một người Tây
Ban Nha gia nhập ḍng Camêlô khi hai mươi tuổi
và sống một cuộc đời b́nh thường
cho đến năm 1556. Vào lúc ấy, sau khi trải
qua mười lăm năm khô khan trong việc cầu
nguyện, Thánh Têrêsa có được một
điều mà ngài gọi là sự hoán cải lần
thứ hai, và bắt đầu cảm nghiệm cách
cầu nguyện huyền bí -- nhiều khi được
thấy hoăïc nghe tiếng nói của Chúa. Ngài trở
nên người cực lực cải tổ ḍng
Camêlô, sáng lập ḍng nữ tu Camêlô đi chân
đất và mười lăm chi nhánh khác trước
khi từ trần. Các sách của thánh nữ, gồm
cuốn Tự Truyện,
Đường Trọn Lành, và Thành
Tŕ Nội Tâm, được coi là kinh điển
tu đức.
Thánh
Têrêsa rất có ảnh hưởng đến một
tu sĩ Camêlô người Tây Ban Nha khác, đó là
John de Yepes (1542-91), thường được gọi
là
Thánh Gioan Thánh Giá.
Là một vị thần nghiệm, đời sống
thánh nhân phải đau khổ nhiều và ngài
đă diễn tả phương cách đến với
Thiên Chúa qua những tăm tối và đau khổ
trong các sách của ngài: Đêm
Tối của Linh Hồn, Đường Lên Núi
Camêlô, Ca Vịnh Tâm Linh, và
Sống Lửa T́nh Yêu.
Giáo
Hội Công Giáo Pháp sau thời Cải Cách đă tạo
được nhiều vị thánh nổi tiếng,
như
Thánh Francis de
Sales (1567-1622),
Thánh
Jeanne de Chantal (1572-1641), và
Thánh
Vincent de Paul (1581-1660). Thánh Francis de Sales là giám mục
của Geneva, Thụy Sĩ từ 1602 đến
1622, ngài nổi tiếng là một cha sở giỏi
và là một người thông minh xuất chúng. Cuốn
sách của ngài, Dẫn
Nhập Vào Đời Sống Đạo Đức và Luận
Đề về T́nh Yêu Thiên Chúa, là hướng dẫn
tâm linh cho những người tầm thường
muốn nên thánh qua các phương tiện đời
sống hàng ngày. Qua sự rao giảng và văn bút
của ngài, thánh nhân đă thu hút được hàng
ngàn người Tin Lành Thụy Sĩ trở về
với đức tin Công Giáo. Ngài được
tuyên xưng là Tiến Sĩ Hội Thánh, và đặt
làm quan thầy cho ba ḍng tu.
Một
trong những người bạn thân của Thánh
Francis de Sale là Jeanne de Chantal, một goá phụ, là
người cùng với Thánh Francis sáng lập Ḍng
Thăm Viếng năm 1610. Ḍng nữ tu này đầu
tiên hoạt động cho người nghèo và bệnh
nhân, sau đó tận hiến cho việc cầu nguyện.
Vào lúc từ trần, Thánh Jeanne de Chantal đă
thành lập được tám chi nhánh.
Thánh
Vincent de Paul rất hăng say trong việc canh tân và
rất yêu quư người nghèo. Tu Hội Truyền
Giáo của ngài là một ḍng tu nhằm thúc đẩy
ḷng đạo đức của giáo sĩ Pháp.
Ngài c̣n giúp sáng lập ḍng Nữ Tu Bác Ái năm
1633, là ḍng nữ đầu tiên tích cực hoạt
động xă hội, chăm sóc người nghèo
và người đau yếu. Thánh Vincent cũng tích
cực trong công việc bác ái đủ mọi loại,
tỉ như chuộc người nô lệ từ
các tầu lao dịch. Ngài là quan thầy của mọi
công cuộc bác ái.
4. Công Cuộc Truyền
Giáo Khắp Nơi. Ngoài
sự dồi dào của các vị thần nghiệm,
giảng thuyết, và các thánh hoạt động xă
hội, cuộc Cải Cách Công Giáo c̣n được
ghi dấu bằng sự khởi đầu một
giai đoạn truyền giáo lâu dài mà nhờ đó
đă nới rộng Giáo Hội Công Giáo đến
khắp các quốc gia trên thế giới. Trong thời
Trung Cổ, có một vài công cuộc truyền giáo
ra nước ngoài, tỉ như việc thiết lập
Giáo Hội Công Giáo ở Trung Hoa Lục Địa năm
1307 của tu sĩ ḍng Phanxicô là Gioan ở
Montecorvino. Tuy nhiên, Kitô Giáo c̣n hạn hẹp trong
Âu Châu cho đến khi Christopher Columbus t́m ra Tân Thế
Giới vào năm 1492 và khi người Bồ Đào
Nha đi thám hiểm Ấn Độ. Sau đó công cuộc
truyền giáo của Giáo Hội Công Giáo như bùng
nổ.
Thánh Phanxicô
Xaviê, ḍng Tên, là người đầu tiên
đem Tin Mừng đến vùng Viễn Đông năm
1542, và sau đó không lâu, ngài được tiếp
nối bởi các cha ḍng Tên, Matteo Ricci, người
viễn chinh đến Trung Hoa năm 1581, và Robert de
Nobili, người đă theo lối sống của
Bàlamôn để đem đức tin Công Giáo vào
Ấn Độ. Công cuộc truyền giáo thành công
nhất ở Á Châu là Phi Luật Tân, nơi đây
một giám mục được tấn phong vào năm
1581. Ngày nay, người Công Giáo Phi chiếm đến
80 phần trăm dân số.
Để
khích lệ nỗ lực truyền giáo, Đức
Giáo Hoàng Grêgôriô XV thành lập Thánh Bộ Truyền
Bá Đức Tin vào năm 1622. Bất cứ các nhà
thám hiểm đến đâu th́ các nhà truyền
giáo cũng đến đó. Bất kể sự
tàn ác của người Tây Ban Nha xâm lược
ở Tây Bán Cầu, các nhà truyền giáo thường
tranh đấu cho quyền lợi của người
bản xứ ở vùng Trung và Nam Mỹ Châu. Họ
giáo dục và lo cho các sắc dân ở Tân Thế
Giới, cũng như hoán cải những người
này. Cuộc truyền giáo sáng chói nhất của
Công Giáo Tây Ban Nha là
Bartholomew
Las Casas (1474-1566), vị tu sĩ ḍng Đaminh này
đă băng qua biển Atlantic mười bốn lần
để bảo vệ quyền lợi chính đáng
của thổ dân đối với nhà cầm quyền
Tây Ban Nha, và
Thánh
Turibius, đức tổng giám mục của
Lima, Peru từ 1580 đến 1606, người bảo
vệ các quyền tự do của người da
đỏ và da đen, ngài dạy bảo họ, và
chuyển dịch kinh sách sang tiếng thổ âm. Năm
1588, linh mục Joseph Acosta ḍng Tên, người đầu
tiên viết về quan điểm truyền giáo kiểu
mới và khuyến khích việc đào tạo linh
mục người bản xứ. Các linh mục
ḍng Tên c̣n thiết lập các ngôi làng, như
ấp chiến lược, cho người Paraguay mà
từ đó đă trở nên trung tâm thờ phượng
và sinh hoạt chung rất tốt đẹp.
Ở
Bắc Mỹ, người Pháp chiếm Gia Nă Đại
làm thuộc địa, và các tu sĩ ḍng Tên cũng
như ḍng Phanxicô tích cực truyền giáo cho các bộ
lạc người Huron, Algonquin, và Iroquois. Máu các vị
tử đạo đă in vết trong nỗ lực
hoán cải những dân tộc này, tỉ như cái
chết anh hùng và đẫm máu của các linh mục
ḍng Tên,
Isaac Jogues
(bị tử đạo bởi người Iroquois
năm 1646),
Jean de
Brebeuf, và những vị khác. Trong khoảng thời
gian từ 1625 đến 1640, Jean de Brebeuf đă rao
giảng cho trên mười ngàn người da đỏ
Huron và giúp hoán cải phần lớn sắc dân
này. Các nhà thám hiểm Tây Ban Nha đến nơi
mà ngày nay là vùng tây Hoa Kỳ, từ đó nhà truyền
giáo Eusebio Kino đă hoạt động ở New
Mexico và linh mục
Junipero
Serra ḍng Phanxicô đă thành lập các trung tâm
truyền giáo dọc theo bờ biển California, nhiều
trung tâm vẫn tồn tại cho đến ngày nay.
Đâu
là kết quả sau cùng của cuộc Cải Cách
Công Giáo và Tin Lành? Giáo Hội Công Giáo bắt
đầu cải tổ qua ơn sủng của Thiên
Chúa. Cuộc cải tổ của Công Giáo nhấn
mạnh đến ba điểm: đạo đức
(h́nh thức mới trong sự thờ phượng),
kỷ luật (chấn chỉnh những lạm dụng
và thanh lọc đời sống Công Giáo), và học
thuyết (làm sáng tỏ các tín điều Công
Giáo). Sử gia Thomas Bokenkotter đă nhận định
về các kết quả canh tân này như sau:
Vào
lúc kết thúc Công Đồng Triđentinô năm 1563,
giáo phái Tin Lành đă tràn lan trên một nửa Âu
Châu. Tuy nhiên, chiều hướng này đă đảo
ngược vào cuối thế kỷ. Với việc
công bố các sắc lệnh của Công Đồng
Triđentinô và sự bộc phát luồng sinh khí mới
trong Giáo Hội Công Giáo -- đặc biệt
được thể hiện qua các tu sĩ ḍng
Tên và sự phục hưng giáo triều -- Giáo Hội
Công Giáo bắt đầu giành lại được
nhiều phần lănh thổ. Ba Lan quay trở về
với Công Giáo; một phần lớn của nước
Đức, Pháp, và nam Ḥa Lan đă hiệp thông với
Ṭa Thánh, trong khi Tin Lành không có sự tiến bộ
khả quan nào sau năm 1563. Và công cuộc truyền
giáo của Công Giáo ở nước ngoài đă
bù đắp cho những mất mát đau
thương ở Âu Châu.
Trong
khi Phúc Âm được loan truyền cho đến
tận cùng trái đất bởi các nhà thừa
sai Công Giáo trong tiền bán thế kỷ mười
bảy, Âu Châu đă đắm ch́m trong các cuộc
chiến tôn giáo cay đắng giữa người
Công Giáo và Tin Lành và giữa các quốc gia theo Tin
Lành. Cuộc chiến sau cùng xảy ra ở nước
Đức. Cuộc chiến Ba Mươi Năm
(1618-1648) được chấm dứt bằng Thỏa
Ước Westphilia (1648), mà nó đă đem lại
cho người Công Giáo, Luther, và Calvin ở Đức
sự b́nh đẳng trước pháp luật.
Trên thực tế, mỗi quốc gia hay mỗi
vùng trong nước đều có một "giáo hội"
Kitô Giáo riêng của nó, và tín đồ của các
giáo phái khác sống trong lănh thổ đó thường
bị bách hại trực tiếp hay gián tiếp. Mặc
dù sau các cuộc tranh chấp đều có những
thỏa ước, Kitô Giáo Âu Châu bị chia cắt
thành nhiều băi chiến trường mà trong đó
tôn giáo là yếu tố then chốt. T́nh trạng
thê thảm này đưa đến việc t́m kiếm
một "tôn giáo hợp lư" trong giai đoạn
Kitô Giáo sắp tới.
Tuy
nhiên, trong mỗi một vùng của Giáo Hội
phân ly, vẫn có nhiều nơi mà Tin Mừng của
Đức Giêsu Kitô bừng cháy một cách chói lọi.
Chắc chắn rằng Giáo Hội Công Giáo vẫn
mong t́m ra cách củng cố đời sống Công
Giáo ở Âu Châu cũng như để lan tràn
đức tin Công Giáo trên toàn thế giới. Cho
đến nay, Giáo Hội Công Giáo đă vượt
qua được những thử thách lớn lao
và đă tồn tại với một sinh lực
được đổi mới.