TRUYỀN GIÁO Ở CHÂU Á
MỘT NỖI TIẾC KHÔN NGUÔI
Gioan Baotixita Trần Thái Thành
ĐỀ TÀI:
Đọc vài ư nhỏ nhặt về "Truyền giáo ở Á châu và một nỗi tiếc khôn nguôi...",
cho vài ư kiến?
PHẦN TÓM TẮT
Qua hai bài viết “Vài ư nghĩ nhỏ nhặt về việc truyền giáo ở Á-châu” của Ḥa
Vũvà “Một nỗi tiếc khôn nguôi” của Tam Tư đă khơi ra nhiều vấn đề trong việc
truyền giáo. Bởi Giáo hội là truyền giáo v́ Giáo hội luôn thực thi lệnh
truyền của Đức Giêsu “các con hăy đi loan tin Mừng cho muôn dân” (…). Chính
v́ lẽ đó mà Giáo hội đă không ngừng loan Tin Mừng của Chúa cho hết thảy mọi
người mọi dân tộc và mọi thời đại.
Giáo hội Công giáo là Giáo hội nhập thế, nghĩa là đến với con người thế trần
để cùng sẻ chia giúp đỡ nhau trên bước đường lữ thứ, hầu mai này cùng được
hưởng vinh phúc đời đời. Chính v́ vậy, chúng ta cũng phải chấp nhận cái thân
phận phàm hèn, mặc dù chúng ta luôn hướng đến siêu việt và mong muốn cho tất
cả nên một trong Đức Kitô; nhưng vón con người là yếu đuối dễ mắc phải những
sai lầm, mà như lời thánh Phaolô từng bộc bạch với tín hữu Côrintô khi Ngài
đến loan Tin Mừng cho họ “điều tốt tôi muốn làm nhưng tôi không làm, điều dữ
tôi không muốn nhưng tôi lại làm” (…).
Như phần đề tài đ̣i hỏi, tôi cùng một số anh emđă thảo luận về hai bài viết
đó, với những suy nghĩ của những người trẻ trong thời đại hôm nay cùng với
những điều trong Tông huấn “Giáo hội tại Á-châu” đă nói lên rằng: trước tiên,
chúng ta phải đặt ḿnh vào trong thời đại đă qua để thông cảm và chấp nhận
cái hạn hữu của con người, và những người loan Tin xưa đă không thức thời để
hội nhập, mà muốn áp đặt cái văn hoá gọi là văn minh Tây Phương cho người Á
Đông mà không cần biết họ cần ǵ, và theo bước tiến của loài người để cho
phù hợp với thực tại th́ bây giờ là lúc cho chúng ta thay đổi. Những cái
chúng ta cho là thành toàn cũng cần xem xét lại cho thực khách quan, chúng
ta cần thay đổi từ con người đến tâm hồn không chỉ riêng cho những nhà
truyền giáo mà là cho tất cả. Nghĩa là chúng ta phải biết thích nghi hội
nhập. Xưa kia chính Đức Giêsu khi đến thế gia, Ngài cũng đă từng sống như
vậy. Cũng như những nhà thừa sai Ḍng Tên đă áp dụng trong những ngày đầu
truyền giáo tại miền đất Á-châu này.
Quả thực dù nói ǵ , nếu chúng ta làm việc chỉ để ư tới cái thành bại bên
ngoài, để rồi thất vọng trách cứ nhau v́ không đạt được ǵ. Và nếu chúng ta
không luôn bám sát vào Chúa nhờ Thần Khí hướng dẫn th́ e rằng chúng ta sẽ
làm lệch lạc tinh thần giáo lư của Chúa, và gương mặt đôn hậu của Đức Giêsu
bị biến dạng (tục hóa), th́ chắc rằng công việc truyền giáo cũng chỉ là cái
hăo huyền không tưởng; người đă đón nhận th́ không lĩnh hội đủ để tin yêu và
đời sống tâm linh sẽ nghiêng ngă theo trào lưu. C̣n người chưa đón nhận th́
không dám t́m hiểu v́ thấy rằng cũng chẳng có ǵ ngoài ông Giêsu bị Môn đệ
của ḿnh đem bán và kết án tử như là phạm nhân. Và cũng chẳng hơn ǵ những
thần linh của cha ông họ đă từng tôn thờ.
Như vậy, việc truyền giáo không chỉ là giới thiệu một Đức Kitô Giêsu phục
sinh hay giảng thuyết về tín lư của Người. Hơn thế nữa, chúng ta c̣n phải
đồng hành, sống với họ như bằng hữu và trở nên nghĩa thiết với nhau như Cha
M. Ricci hay Cha Alexandre de Rohdes là những nhà thừa sai có đời sống ảnh
hưởng mạnh mẽ đến người dân, và với phương pháp như vậy mà các Ngài đă trinh
phục được tâm hồn người dân nơi đây, và đă gặt hái được nhiều thành quả mà
tiếng vang c̣ng măi đến hôm nay.
A. DẪN NHẬP:
Nh́n lại Giáo Hội Công giáo trải qua ḍng thời gian hơn hai ngàn năm lịch sử,
kể từ khi Chúa Giêsu thiết lập và giao trọng trách cho Giáo Hội là phải
"loan Tin Mừng cho muôn dân"(x.Mt28,29-30). Với lệnh truyền đó đă trở thành
mục tiêu không thể thay thế của Giáo Hội "Giáo Hội luôn tận tâm lo lắng và
cổ vơ việc truyền giáo" (TG16). Hơn nữa, Giáo Hội ư thức sâu sa lời Thánh
Phaolô đă từng thổ lộ với tín hữu Côrintô như chính lời của ḿnh rằng: "khôùn
thân tôi, nếu tôi không rao giảng Tin Mừng" (1Cr 9,16).
Thật vậy, Giáo Hội được khai sinh từ hoạt động phúc âm hóa của Chúa Giêsu và
của các Tông Đồ, kể từ đó Giáo Hội không ngừng thực thi mệnh lệnh Chúa đă
truyền, không ngừng loan Tin Mừng cứu rỗimuôn dân, đem Tin Mừng đến tận cùng
trái đất. Tuy nhiên công việc truyền giáo không phải luôn thuận buồm xuôi
gió. Ngay từ những ngày đầu công khai rao giảng Tin Mừng Chúa Giêsu đă gặp
không ít những cản trở từ phía gia đ́nh người thân cho đến những nhà cầm
quyền Do-thái đạo cũng như đời, (x.Lc4,24-29). Như vậy người Thầy đă không
được ái mộ th́ làm sao những học tṛ lại được tiếp đón nhiệt t́nh. Nhưng
Giáo Hội vẫn là một Giáo Hội truyền Giáo, bởi v́ dặc tính truyền giáo thuộc
về bản chất của Giáo Hội và "Giáo Hội công giáo là truyền giáo".
Với tư cách là người kế vị Thánh Phêrô, chăn dắt đoàn Chiên mà chính Đức
Giêsu đă trao phó " Phêrô, anh hăy chăn dắt các chiên con chiên mẹ của Thầy"
(……..). Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đă bắt đầu thông điệp về truyền giáo
của Giáo Hội là " sứ vụ của Đức Giêsu, Đấng cứu thế đă trao phó cho Giáo hội,
vẫn chưa được hoàn tất. Vào cuối thiên niên kỷ thứ 2, kể từ khi Người đến.
Cái nh́n tổng quát về nhân loại cho ta thấy sứ vụ đó ẫn c̣n ở giai đoạn đầu,
và chúng ta phải dấn thân hết ḿnh" (RM1). Đặc biệt là tông huấn Hội Thánh
tại Á Châu, được Đức Giáo Hoàng Gioan PhaolôII công bố tại Niu-đê-li (Ấn độ)
ngày 16-11-1999 giữa lúc Giáo Hội toàn cầu đang chuẩn bị đón mừng năm Thánh
2000.
Hưởng ứng lời kêu gọi này, người ta đă đem vấn đề truyền giáo tại Á Châu ra
thảo luận, phân tích một cách nghiêm túc và đầy nhiệt t́nh, hầu t́m ra một
hướng đi thích hợp để giới thiệu Chúa Giêsu Kitô cho người ÁChâu, đồng thời
lư gải một số thắc mắc là tại sao vùng đất Á Châu này đă được loan Tin Mừng
ngay từ những năm đầu Kitô giáo mà cho tới nay nhiều người vẫn chưa biết Đức
Giêsu là ai?. Lịch sử Giáo Hội cho biết, Thánh Tôma Tông đồ đă đến thiết lập
Hội Thánh tại Ấn độ ngay từ những năm 52. Thế mà đến nay đă bước sang ngàn
năm thứ 3 rồi mà tỷ lệ người công giáo chưa tới 3%. Quả thực, gieo th́ nhiều
mà thu chưa được là bao.
Bây giờ là lúc chúng ta cùng ngồi lại t́m ra đâu là nguyên nhân và lư do tại
sao? Cùng những lầm lỡ trong qúa khứ. Chính Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đă
bộc bạch trong cuốn "Kư ức và lỗi lầm". Ngài đă dám nh́n thẳng vào sự thật,
nhận trách nhiệm về ḿnh mà Giáo hội mắc phạm, làm cho một số Tôn giáo anh
em thành kiến nghi kỵ mỗi khi nói đến Giáo Họi công giáo cũng như hàng giáo
quyền Rôma, mà trong đó Giáo Hội Việt nam cũng đă từng bị coi là quân Tả đạo,
đạo ngoại lai, đạo phản quốc...
Trong bài viết này, chúng tôi xin được nêu một số vấn đề liên quan đến việc
truyền giáo cho người Á-Châu xưa và nay cùng những thành bại do đâu và v́
đâu? Và chúng tôi cũng có vài tâm nguyện nhỏ cho việc truyền giáo ở Châu lục
này được tốt hơn, theo tinh thần của Chúa Giêsu cùng lời mời gọi của Đức
Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, chứ không hẳn là một kế hoạch hay một phương án.
Bài viết này được chia làm hai phần:
* Phần đầu: chúng tôi phân tích sơ lược về nội dung của hai bài viết và cuộc
truyền giáo một số nước tại Á Châu.
* Phần sau: Để góp một vài ư nhỏ cho việc truyền giáo tại Á Châu, thiết nghĩ
chúng ta cần trở về nguồn. Nghĩa là trở về nguồn gốc Tin Mừng, nơi phát xuất
từ Chúa Giêsu, chúng ta sẽ học được phương pháp sư phạm của Người cùng những
giao tiếp hàng ngày mà Chúa đă sống nơi gia đ́nh Nazareth và những năm tháng
đi khắp miền loan Tin Mừng. Và chúng ta sẽ có lời giải cho việc truyền giáo
Á-Châu là ḥa nhập, là sống, là trở nên bằng hữu, là cho đi và nhận lại, mà
h́nh ảnh các nhà thừa sai đă để lại, và nổi bật nhất là cha M. Ricci hay cha
Aiexandre de Rohdes…là những tấm gương sáng ngời cho chúng ta bắt chước.
B. NỘI DUNG
I. SƠ LƯỢC VỀ NỘI DUNG CỦA HAI BÀI VIẾT & HÀNH TR̀NHTRUYỀN GIÁO TẠI Á CHÂU
1.Phân tích sơ lược về hai bài viết
1.1. Vài ư nghĩnhỏ nhặt về việc truyền giáotại Á châu
Qua bài “ Vài ư nhỏ nhặt về việc truyền giáo tại Á-châu” của Ḥa Vũ, với
phần nội dung mà tác giả đă tŕnh bày, quả thực là không nhỏ, tác giả đă
nh́n thấy thực trạng trong việc truyền giáo tại Châu lục này, một miền đất
có nhiều Tôn giáo ngự trị và một triết lư thâm sâu mà người Tây Phương không
thể dùng lư lẽ để giải thích, nên việc giới thiệu Đức Kitô là Đấng cứu độ
duy nhất, Đấng giải thoát cho con người khỏi những trầm luân hỏa ngục quả là
khó khăn.
Chúng ta biết, Đức Kitô được sinh ra tại Châu lục này mà lại không được
người nhà ḿnh tiếp nhận, có phải điều này đă ứng nghiệm lời Kinh Thánh nói
“tảng đá bị thợ xây loại bỏ”, rồi người Châu Âu lại đem Đức Giêsu trở lại
Châu Á quê hương của Ngài, nhưng đă bị coi là ngoại lai, tả đạo, đạo Tây…v́
nơi đây đă có các Tôn giáo khác như Khổng giáo, Nho giáo, Phật giáo vv, với
tín lư diệt khổ hay giác ngộ để hưởng nơi cực lạc là Niết Bàn. Hơn nữa khi
Kitô giáo nhập vào lại do người Châu Aâu được coi là đem nền văn minh cho
miền đất Man ri Mọi rợ Á Châu. Trong khi đó c̣n có những thực dân lợi dụng
vào chiếm đất, biến người dân nơi đây thành những nô lệ ngay trên mảnh đất
của ḿnh. Hơn nữa khi Kitô giáo đến đây với khẩu hiệu “Đức Kitô là Đấng cứu
độ duy nhất”. Đúng vậy, đức tin của chúng ta, những người tin vào Ngài phải
tuyên tín như vậy, chỉ có nơi Ngài mới có sự giải thoát, Ngài là khởi nguyên
và là cùng đích, ai tin vào Ngài mới được cứu độ. Vậy những người ngoài Kitô
giáo th́ sao? Họ không được cứu thoát chăng, vậy họ như thế nào khi niềm tin
của họ luôn hướng tới nơi cực lạc. Chắc rằng Thiên Chúa không bao giờ để cho
suy nghĩ loài người cản trở công tŕnh sáng tạo của Ngài, v́ t́nh yêu của
Ngài vượt trên tất cả, mọi sự dữ trần gian cũng không ngăn được trái tim
nồng cháy của Ngài, t́nh yêu của Ngài bao phủ tất cả, đôi cánh tay Ngài luôn
dang rộng để đón lấy những tâm hồn tội lỗi ăn năn trở về, trái tim rớm máu
của Ngài luôn rộng mở. Vậy một cách nào đó họ vẫn được cứu, v́ những ai chịu
phép rửa mới được gọi là con Thiên chúa, nhưng lại có những h́nh thức đón
nhậnkhác nhau (bằng nước, bằng lửa và bằng máu) nghĩa là những con người
luôn khao khát sống đời công chính. Nhưng tiếc thay những người cha anh đă
không sớm nhận ra và cứ cho rằng họ sai lạc. Mà không nhận ra rằng cách
tŕnh bày của chúng ta cho họ cũng không thấu đáo và làm cho họ không hiểu
được, nên họ coi ḿnh như bị xúc phạm. Cái niềm tín thác bấy nay của cha ông
họ như bị mai một v́ một tín lư ngoại lai và cũng một cách tŕnh bày sao cho
người ta cảm nhận được đời sống tâm linh của họ như được thăng hoa, được lớn
thêm khi gặp Kitô giáo và khi đó những nhà thừa sai như mang một suy nghĩ:
đem nền văn minh Tây phương cho những vùng đất xa xôi lạc hậu như miền đất Á
châu này, chính điều này đă làm cho người Á châu vốn không ưa thực dân phong
kiếnlại càng ghét hơn, nên việc chấp nhận một tôn giáo của họ lại càng không
thể, và như ca dao Việt thường nói “lời nói không mất tiền mua” thực là như
vậy, đấy là triết lư của người Việt nó đă đi vào tiềm thức. Muốn được như
vậy, quả là không dễ chút nào, mà đ̣i nơi mỗi người luôn phải nổ lực sao cho
người dân vùng này chấp nhận với niềm tin của ḿnh, chứ không chịu một áp
lực nào. Hơn nữa, với nền văn hóa Á châu thiên về tâm mà người Tây phương
không thể lư giải được, nên việc t́m hiểu vũ trụ vạn vật bằng trực giác, và
muốn đạt tới những lẽ huyền bí của vũ trụ, những cái mà người xưa quen gọi
là “bất khả ngôn, bất khả tư nghị” ( không thể nói xiết, không thể tưởng
tượng bàn bạc được). V́ lẽ đó mà khi Kitô giáo du nhập vào lại cho là mê tín
dị đoan. Vậy muốncho tâm hồn người Á châu chấp nhận được Kitô giáo th́ chính
Kitô giáo phải trở thành người Á châu, th́ lúc đó mọi sự sẽ được tỏ bày. Và
điều tối quan trọng nữa, khi chúng ta làm việc nếu không bám sát những điều
do Chúa mạc khải và được Thần Khí Chúa hướng dẫn th́ e rằng mọi sự chỉ là
uổng công.
1.2. Một nỗi tiếc khôn nguôi
Qua bài “một nỗi tiếc khôn nguôi” của Tam Tư. Như phần trên của bài viết vài
ư nghĩ nhỏ nhặt đă nêu lên hàng loạt cái lư do trong việc truyền giáo tại
châu lục đă có nhiều tôn giáo này, th́ đến bài viết “một nỗi tiếc khôn
nguôi” lại càng làm cho ta cảm thấy mất mát điều ǵ đó và đặt ra nhiều thắc
mắc hơn (nếu như, giá mà cái ngày ấy…), th́ ngày nay trên mảnh đất này đă có
bộ mặt khác xưa nhiều lắm, chắc đă có hàng đoàn lũ những người tin vào Đức
Kitô. Như chúng ta biết những người đi tiên phong thường không được chấp
nhận, có khi c̣n liên luỵ đến bản thân nữa. Trong lịch sử loài người đă ghi
lại rất nhiều, ví như vụ án Gallilé hay tại Việt nam là Nguyễn Trường Tộ
…nếu như cái biết của họ nói chậm lại th́ có lẽ chúng ta không có những kết
án hồ đồ, để rồi chúng ta phải nuối tiếc với những sai lầm và, giá như những
nhà thừa sai Ḍng Tên đề xuất chậm hơn th́ có lẽ cũng không có chuyện bắt bớ
bách hại đạo ở Trung Hoa thời vua Khang Hy, Ung Chính hay ở Việt nam trong
các thời quân quyền Vua chúa. Sự tranh cải nhau giữa các nhà thừa sai đă làm
nảy sinh nhiều vấn đề không những bị cấm cách bách hại đạo mà người ta c̣n
nh́n vào một Giáo Hội với nhăn quang không mấy thiện cảm v́ những hiểu lầm
chính trị và để sáng tỏ hơn chúng tôi sẽ tŕnh bày trong phần sau.
Chúng ta không giám so sánh việc truyền giáo ở Châu Á với Châu Âu có mức
chênh lệch như thế nào; nhưng đây cũng là vấn đề mấu chốt cho những ai thành
tâm thiện ư xem lại việc truyền giáo tại Á Châu sao cho thích hợp mà người
Châu Âu đă từng làm. Ngay từ những ngày đầu khai sinh Giáo hội Chúa Giêsu đă
ḥa ḿnh với dân chúng cũng như những tập tục mà người Dothái sống, hay
người môn đệ hăng say của Chúa là Phaolô, Ngài đă bươn chải với hành tŕnh
truyền giáo cho dân ngoại, Thánh nhân đă không từ chối một công việc ǵ dù
khó khăn đến mấy. V́ Ngài không muốn người ta hiểu sai về Chúa, để Tin Mừng
tự do thấm nhập vào tâm hồn người ta chứ không chịu một áp lực nào.
2. Vài nét sơ lược về lịch sử truyền giáo ở vài nước tại Aù Châu
Song song với công cuộc thám hiểm, chinh phục thế giới mới của chính phủ
hoàng gia Bồ Đào Nha, đă bắt đầu trung tuần thế kỷ XV và hoạt động mạnh mẽ
đến thế kỷ XVI th́ có các nhà truyền giáo bắt đấu đi đến những vùng đất xa
xăm được các nhà thám hiểm mở lối. Trong khi một số thừa sai thuộc ḍng Tên
đem ánh sáng Tin Mừng đến Châu Mỹ, th́ một cánh đồng truyền giáo lớn hơn là
Châu Á được trao cho các thừa thuộc nhiều ḍng: Đa Minh, Phanxicô,
Augustinô, Hội thừa sai Paris và Ḍng Tên.
Đây là một vùng đất có một nền văn minh tối cổ và nhiều tôn giáo khác đă có
mặt tại đây, và cũng là chiếc nôi của Kitô giáo. Nhưng giờ đây, người Á Châu
mới được biết đến Đức Kitô. Có phải "Đức Giêsu Ngài đến Á Châu qúa trễ" như
nội dung bài viết của Trần Duy Nhiên trong nguyệt san số 90 tháng 6-2002.
Dưới đây chúng ta cùng t́m hiểu vài nét sơ lược về lịch sử truyền giáo trong
những thế kỷ đầu ở một vài nước tại Á Châu; t́m hiểu lư do tại sao công cuộc
truyền giáo tại Châu Âu lại thành công hơn Á Châu. Tuy nhiên, chúng ta không
thể phủ nhận một vài nỗ lực của các thừa sai tại Á Châu đă chọn ra một
phương pháp rao giảng rất phù hợp với con người tại đây, nhờ đó đem lại một
số thành công dù trong một thời gian ngắn như Cha M. Ricci và Cha Alexandre
de Rhodes chẳng hạn. Chắc hẳn có nhiều lư do khác nữa.
2.1.. Nhật Bản
Giáo Hội Nhật Bản là một Giáo Hộicó những trang sử tuy ngắn, nhưng đẫm máu
anh hùng tử đạo. Đó là một Giáo Hội do thánh Phanxicô Xaviê thành lập mà sau
này đă tỏ ra thật can trường trong những cơn bách hại, nhưng lại thiếu “cơ
sở hạ tầng"chu đáo và vững chắc. Thánh nhân đến đây cùng với hai cha đồng
bạn và ông Hashinô, một người Nhật đă được rửa tội trước đó tại Malacca. Tại
đây thánh nhân rửa tội rất nhiều người, khoảng 3.000 người. Nhiều người Nhật
theo đạo v́ sự hấp dẫn của văn minh tiến bộ Âu Châu. Dần dần số tín hữu tăng
lên 300.000. Vị có công trong việc tổ chức này là chaValignanô. Ngài chọn
hướng thích nghi, đưa ra những chỉ dẫn về nghi thức quà cáp, về tôn giáo
Nhật, về kiểu nhà thờ Nhật.
Khi phong trào bài ngoại nổi lên (chiếu chỉ 1613 của Daifu Sanna) Giáo Hội
lâm nguy, tuy nhiên nhiều giáo dân Nhật Bản đă tỏ ra anh dũng. Việc xử công
khai 50 Đấng tử đạo tại Nazasaki mới chỉ là mở màn. Vào năm 1637- 1638 có
gần 35.000 giáo dân bị giết khi đứng lên bảo vệ đức tin và sinh mạng.
Điều đáng khâm phục hơn và cảm động nhất là trong những cuộc bách hại ở Nhật
Bản không phải chỉ là đặc tính can trường của hàng ngàn người này, nhưng là
chính sự trung thành với một đức tin một cách kiên tŕ -có lẽ đây là trường
hợp duy nhất trong lịch sử của những tín hữu không có linh mục, không thánh
lễ, không thánh đường mà giữ được đức tin và ḷng yêu mến Chúa- sau 220 năm
bị cô lập (trung tuần thế kỷ XIX) người ta c̣n t́m thấy 20.000 giáo dân
2.2. Ấn Độ
Theo lưu truyền, khi cuộc bách hại bùng nổ năm 42, các tông đồ bỏ Giêrusalem
tản mác khắp nơi, trong đó có thánnh Tôma, sau một thời gian ở Partha,
Assyri, Mêsôpôtamia đă sang Ấn Độ và truyền giáo tại đây. Chính xác nhất vào
thế kỷ V các tín hữu phái Nestoriô đă đến đây, họ ở khắp các miền Malabar,
họ hoạt động cách yếu ớt và rời rạc. Thánh Phanxicô Xaviê đến đây vào thế kỷ
XVI. Sự thực việc làm cho các tín hữu Ấn độ đi sâu vào Tin Mừng rất khó bởi
lẽ họ rất sốt sắng, nhưng mê tín và kém văn hóa; vả lại đàng sau Kitô giáo
là cả một khối tôn giáo Ấn độ huyền bí, họ đă nhiễm tư tưởng của các bậc
thánh hiền và thánh kinh của các vị này.
Vài nhà truyền giáo thấy rằng Ấn độ Balamôn chỉ có thể trở lại công giáo khi
các triết gia, vua chúa, tư tế của họ theo đạo. Đó là sáng kiến của cha R.
de Nobili (ḍng Tên). Để thực hiện điều này, các cha t́nh nguyện trở thành
người Balamôn, sống như những nhà tu hành Ấn. Ngài đă ḥa ḿnh vào lối sống
Balamôn để giảng đạo cho họ. Về nghi thức ngài bỏ bớt những ǵ người Ấn độ
khó chịu cấm kỵ như thổi hơi, chấm nước miếng… Nhiều người đă xin theo học
đạo năm 1677 có 40.000 tín hữu. Tuy họ không c̣n thờ ngẫu tượng nhưng họ vẫn
c̣n quá xa với t́nh bác ái Tin Mừng, t́nh huynh đệ Kitô giáo. Đức thánh cha
Gregôriô XV đă lên tiếng cảnh cáo vào năm 1734. Sau đó Đức Giáo Hoàng
Clêmentê XII lên án gắt gao. Có thể nói đạo Kitô giáo lúc đầu ở Ấn độ rất
thịnh cho tới thế kỷ XVII, sau đó là sa sút.
2.3. Trung Hoa
Đầu thế kỷ XIV cha J. de Montcorvin ḍng Phanxicô đến Bắc kinh. Ngài truyền
giáo tại đây bằng cách lập hàng giáo sĩ địa phương, đào tạo chủng sinh và
dịch một phần Tân Ước và Thánh Vịnh sang tiếng Mông cổ. Nhưng mỗi bận tâm
của ngài không phải truyền giáo mà làm cho những tín hữu thuộc hai phái lạc
giáo kia trở lại công giáo. Không may cho hai giáo phái kitô giáo này bị Hồi
giáo Mông cổ và Thổ Nhĩ Kỳ tàn sát và tiêu diệt do Tamerlan năm 1380.
Giáo Hội công giáo chính thức truyền giáo tại Trung Hoa vào cuối thế kỷ thứ
XVI do các thừa sai Ḍng Tên, Đa Minh và Phanxicô. Các thừa sai tiếp xúc với
mọi giai cấp xă hội: thợ thuyền, thương gia, nông dân, trí thức… Cha M.
Ricci Ḍng Tên là một nhà truyền giáo nổi bật tại đây. Việc truyền giáo của
ngài có quy mô và có kế hoạch mang tính hội nhập văn hóa cao. Cha sống ḥa
ḿnh trong mọi trường hợp có thể: y phục, thực phẩm, ngôn ngữ, lễ nghi, văn
hóa, phong tục. Cha c̣n học triết lư Khổng Tử khoa học Trung Hoa và cha chủ
trương kính trọng và bảo vệ giá trị văn minh của Trung Hoa. Ngài nhận thấy
giữa luân lư Nho giáo và Phúc Âm không có ǵ mâu thuẫn nhau. Kết quả là vua
Hy Tông có nhiều thiện cảm với đạo giáo, đă ngỏ ư muốn tin theo. Số giáo dân
lúc đầu lên đến 40 ngàn người, trong số đó có 14 quan nhất phẩm, 10 tiến sĩ,
11 cử nhân và 3000 tú tài. Và vua Khang Hy công bố chiếu chỉ dành cho các
thừa sai mọi sự dễ dăi để giảng đạo và chính thức nh́n nhận hàng giáo phẩm
Trung Hoa và các tổ chức công giáo trong nước.
Nhưng tiếc thay cuộc tranh luận về nghi lễ tại đây đă phá hỏng toàn bộ công
tŕnh và kế hoạch truyền giáo mà cha đă dànhtrọn cuộc đời để thực hiện.
Riêng cách truyền giáo của cha sẽ giúp ta hiểu sâu sắc hơn về hội nhập văn
hóa mà chúng ta sẽ tŕnh bày ở phần sau. Cuộc tranh chấp này đă làm hơn 90%
giáo dân bỏ đạo, việc truyền giáo bắt đầu chuyển sang một chiều hướng đi
xuống, phải mất một thời gian khá lâu cuộc tranh luận này mới được giải
quyết một cách ổn thỏa.
2.4. Việt Nam
Điểm khởi đầu đặt nền tảng cho công cuộc truyền giáo tại Việt Nam là vào thế
kỷ XVI, khi các thừa sai theo chân các thương gia Bồ Đào Nha vào buôn bán
trên lănh thổ Việt Nam. Bối cảnh chung của lịch sử Việt Nam trong giai đoạn
này rất phức tạp, đă xuất hiện những biểu hiện sự suy vong của chế độ phong
kiến nước ta, nội chiến xảy ra liên tục và có sự can thiệp của các lực lượng
bên ngoài. Điển h́nh dưới triều Mạc Mậu Hợp (1562-1592), khi nhận được thư
và ảnh của cha Di Pesaro xin cho Cha và các thừa sai vào Bắc Triều giảng đạo
th́ vua rất vui, v́ như thế, các giáo sĩ sẽ bảo đảm cho việc buôn bán, liên
lạc với người Bồ Đào Nha và hy vọng họ sẽ cung cấp vũ khí cho nhà vua để đối
phó với nhà Lê. Và sau này năm 1590 một vị thừa sai tên là Ordonnez de
Cevallos đă đến Việt Nam do bị băo và trôi dạt vào ven biển Lạch Tường -
trên cửa sông Mă- ngài truyền giáo tại đây. Tuy nhiên, trong thế kỷ XVI việc
du nhập kitô giáo vào Việt Nam chưa có ǵ đáng lưu tâm, những vị thừa sai
này chỉ mới “thử nghiệm"thôi.
Bước sang thế kỷ XVII, hoạt động của các thừa sai bắt đầu có hệ thống, qui
mô và rầm rộ hơn. Với các thừa sai Ḍng Tên, tư thế của các ngài trong giai
đoạn này là tư thế của người truyền giáo tiên phong, đi khai phá. Một cuộc
khai phá có chủ trương, có tổ chức và có hiệu quả. Chính thời kỳ này đặt nền
tảng cho Giáo hội Việt Nam.
Sau 37 năm truyền giáo ở đàng ngoài và 50 năm ở đàng trong, các thừa sai đă
để lại cho Giáo hội Việt Nam khoảng 100.000 tín hữu (20.000 ở đàng trong,
80.000 ở đàng ngoài). Khuôn mặt nổi bật nhất trong các thừa Ḍng Tên ở giai
đoạn này là Linh mục Alexandre de Rhodes hay c̣n gọi là cha Đắc Lộ, với
phương pháp thích nghi và hội nhập văn hóa rất thích hợp ở đây mà chúng ta
sẽ bàn ở phần sau. Ngài là một nhà truyền giáo hay say nhiệt t́nh. Ngài là
người có công trong việc h́nh thành chữ Quốc Ngữ - biên soạn và xuất cuốn tự
điển Việt – Bồ - La và cuốn sách bằng chữ Việt ngữ đầu tiên là cuốn “Phép
giảng tám ngày”.
3. So sánh công cuộc truyền giáo tại Aù Châu và Châu Âu
Nh́n lại lịch sử truyền giáo tại Châu Âu và Châu Á, ta thấy người Châu Âu dễ
dàng đón nhận sứ điệp Tin Mừng dù ban đầu có gặp không ít khó khăn, nhưng kể
ra công cuộc truyền giáo rất thành công. Giữa thế kỷ XX Kitô giáo chiếm 70 %
dân số riêng công giáo36%.C̣n tại Châu A Ù,côngcuộc truyềngiáo đă gặp nhiều
khó khăn từchính vùng này ban đầukhi các nhà truyền giáo tới đây,một vùng
đất có quá nhiều tôn giáo và phong tục tập quán cũng khác, gặp nhiều khó
khăn trong việc thích nghi với văn hóa cổ xa xôi, bên cạnh đó không có sự
thống nhất giữa các nhà truyền giáo và những phán quyết của những người có
thẩm quyền trong Giáo Hội về việc thích nghi và hội nhập văn hóa, nhất là
vấn đề lễ nghi. Nên dầu được truyền giáo rất sớm khoảng thế kỷ IV, nhưng
Kitô giáo chỉ chiếm 3,2% trong đó công giáo 2,4%. Vậy đâu là lư do truyền
giáo tại Châu Á không thành công như Châu Âu ?
Để trả lời cho câu hỏi này chúng ta dựa trên các lănh vực ảnh hưởng công
cuộc truyền giáo tại nơi đây như: tôn giáo, chính trị và việc thích nghi và
hội nhập văn hóa.
3.1. Về Tôn Giáo
Châu Á là vùng đất tốt của các tôn giáo lớn trên thế giới, là chiếc nôi của
các tôn giáo như: Ấn Độ giáo, Phật giáo, Khổng giáo, Lăo giáo … Những tôn
giáo có tầm cỡ ngang với Kitô giáo mà cha Pieris gọi là “siêu vũ trụ”. Các
tôn giáo này có những hệ thống triết lư cao siêu, có khả năng đáp ứng nhu
cầu tri thức tâm linh sâu thẳm của con người, và có những nền luân lư siêu
Việt với những đường lối tập tu hữu hiệu, giúp người ta đạt tới cảnh giới an
lạc của tâm linh. Những tôn giáo này có những truyền thống lâu đời như Ấn
giáo, Phật giáo, Khổng giáo, Lăo giáo phát triển mạnh trước khi Kitô giáo
đến. Như thế, Kitô giáo đến đây như một tôn giáo hoàn toàn xa lạ với những ư
niệm mới mẽ thành ra khó được chấp nhậän ở đây.
Về cách nhận thức về Thiên Chúa, quan niệm về Thực Tại Tối Hậu nơi Châu Á
không giống Tây phương về hai đặcđiểm chính của triết lư và tôn giáo Châu Á.
Đó là, trước hết người ta có cái nh́n tổng hợp, hài ḥa về mọi thực tại, kể
cả Thực Tại Tối Hậu, mà người gọi là: Trời, Thiên, Đại ngă, Brahman hay Đạo.
Thứ đến, v́ đây là cái nh́n hài ḥa, kết hợp âm dương, nội ngoại, siêu việt
nội tại. V́ thế mà cách đạt tới thực tại là con đường phủ định. Người ta
không thể giải thích Thiên Chúa là ǵ, nên chỉ nói Người không phải như thế
này, không phải như thế kia. Do đó mà người ta quan niệm rằng nên dùng cái
tâm hơn là dùng lư trí để nghiệm ra chân lư và không thể phân tích chân lư.
Cho nên, thần học Châu Âu, nhất là thần học kinh viện không thích hợp với
tinh thần tôn giáo Châu Á, v́ nó quá thuần lư.
Trong khi tại Châu Âu, trước khi Kitô giáo đến đây chưa có một tôn giáo nào
có tầm cỡ như Kitô giáo, nên Kitô giáo có khả năng đáp ứng những nhu cầu tâm
linh và giải đáp được những thắc mắc về ư nghĩa cuộc đời hay về nguồn gốc vũ
trụ. V́ thế, Kitô giáo dễ đuợc đó nhận để thay thế những tôn giáo “yếu
kém"hơn là điều tất nhiên.
3.2. Về Chính Trị
Trong chế độ quân chủ, chưa có một vị vua nào ở Châu Á theo Kitô giáo hoặc
tích cực ủng hộ công cuộc truyền giáo, có chăng th́ trong một thời gian ngắn
thôi. Nhiều khi Kitô giáo bị cấm đoán, bị bách hại v́ chính quyền nghi ngờ
sự phát triển của Kitô giáo sẽ gây bất lợi cho đất nước. Lư do này dễ hiểu,
với các thừa sai nước ngoài khi truyền giáo họ tổ chức giáo dân thành những
cộng đoàn sống động, gắn bó với nhau, sinh hoạt rất thường xuyên, lắm lúc
hàng tuần, thậm chí hằng ngày, sáng tối hội họp đọc kinh rôm rả; có lúc tập
hợp hàng trăm, hàng ngàn người. Họp nhau không chỉ để kinh nguyện và lễ bái
mà c̣n để nghe các thừa sai nước ngoài, các linh mục bản xứ truyền đạt nhân
danh Thiên Chúa, những điều phải giữ, những việc phải làm. Tính tổ chức và
kỷ luật của Kitô giáo cũng làm cho các quan thời phong kiến lo sợ. Và khi
dân chúng đă theo đạo Kitô giáoth́ dường như họ sẵn sàng nghe theo các vị
lănh đạo truyền giáo hơn là nhữngvị lănh đạo quốc gia. Bên cạnh đó c̣n có sự
nghi kỵ của các tôn giáo khác tại đây.
Và tại Châu Âu, trong ba thế kỷ đầu tuy gặp nhiều khó khăn, bị bách hại,
nhưng từ thế kỷ IV trở về sau việc truyền giáo rất thuận lợi, như thời vua
Constantinô I, hoàng đế trở lại Kitô giáo, không những cho những nhà truyền
giáo được tự do rao giảng mà c̣n ủng hộ tối đa. Ông đă biến Kitô giáo thành
quốc giáo. Một đế quốc trăi rộng khắp Châu Âu, lan sang Châu Á và Châu phi.
Và một khi nhà vua theo đạo th́ đạo ấy được trọng dụng và lôi cuốn nhiều
người theo, và thần dân thấy theo đạo có lợi cho ḿnh hơn. Tâm lư đó thật dễ
hiểu. Có thể lúc đầu người ta vào Kitô giáo chỉ v́ chính trị, ngoại giao hay
kinh tế. Nhưng khi vào đạo rồi, họ được giáo dục theo tinhthần Kitô giáo từ
thế hệ này sang thế hệ khác và dần dần trở thành Kitô giáo gốc. Và Âu Châu
được truyền giáo trong một hoàn cảnh thuận như thế đó.
3.3. Về Việc Thích Nghi Và Hội Nhập Văn Hóa
Về việc này có lẽ công cuộc truyền giáo tại Châu Âu thành công hơn tại Châu
Á. Thật vậy, tại Châu Á việc thích ứng và hội nhập văn hóa không được đặt
nặng lắm, mặt khác các vị lănh đạo Giáo Hội đă chưa thật sự thấu hiểu nền
văn hóa và phong tục Châu Á. Kitô giáo được đưa vào Châu Á bằng con đường
“áp đặt"nhiều hơn là “hội nhập”.
Tại Châu Âu, trước hết các Tông đồ là những người sống trong đế quốc Rôma,
nên đă tiếp xúc với nền văn hóa Rôma và đă hiểu rơ văn hóa này. V́ thế, khi
truyền giáo các ngài đă thích ứng cách diễn tả, giải thích và tŕnh bày sứ
điệp Tin Mừng với văn hóa Rôma cách dễ dàng ngay từ đầu. Và v́ Kitô giáo
được truyền vào đây sớm nên các giới lănh đạo Giáo Hội và truyền giáo đều là
những người ảnh hưởng văn hóa Hylạp. Nên việc họâi nhập văn hóa không có ǵ
khó khăn cả.
Chẳng hạn, danh từ nguyên thủy để chỉ về Thiên Chúa trong Thánh Kinh là
ELSHADDAI hay YAHVEH hay ELOHIM. Để thích ứng với người Châu Âu các giáo phụ
đă không dùng những từ Do thái ấy để chỉ về Thiên Chúa, mà sẵn sàng “rửa
tội"cho các từ THEOS, DEUS hay DIEU …. Vốn là những từ được dùng để chỉ các
thần của người Châu Âu - chúng không có nghĩa là Thiên Chúa như chúng ta
hiểu hiện nay, nhưng các giáo phụ đă không chấp nhất chuyện nhỏ nhặt đó mà
lưu tâm đến điều quan trọng hơn là thích nghi và hội nhập văn hóa. Hay về
ngày Đức Giêsu sinh ra người ta không xác định được, khi cần phải chọn một
ngày trong năm để kỷ niệm ngày sinh nhật Ngài, Giáo Hội không ngần ngại chọn
ngày 25 tháng 12, là ngày người Châu Âu thờ thần Mặt Trời. Sự trùng hợp như
vậy giúp cho Kitô giáo dễ hội nhập vào Châu Âu. Về y phục trong phụng vụ
cũng mô phỏng y phục của người Rôma, là thứ y phục xuất phát từ nền văn hóa
của dân chúng, để phụng vụ trở nên quen thuộc gần gũi với họ. Y phục của
hàng giáo sĩ, các tu sĩ không khác với y phục của dân chúng bao nhiêu. Vả
lại, lúc đầu Kitô giáo lấy triết lư Hylạp làm dụng cụ khai triển đă tạo nên
một nền thần học vững chăi mà Giáo Hội trong hàng chục thế kỷ coi là đúng
đắn nhất, khó có thể có một nền thần học khác tương tự. Do đó, việc rao
giảng sứ điệp của Đức Giêsu Kitô có vẻ như rao giảng kết quả thần học ấy.
Có thể nhận ra tại Châu Âu Kitô giáo đă được Âu hóa từ cách thức, tư tưởng
đến những h́nh thức bên ngoài để có thể thích nghi với người Châu Âu. Tất cả
những nét văn hóa mang tính Do thái đều được cởi bỏ để mặc lấy những nét văn
hóa Châu Âu. Việc hội nhập văn hóa sứ điệp Kitô giáo vào Châu Âu phải nói là
rất hoàn hảo, và nhờ đó Châu Âu cũng được Kitô hóa hoàn toàn. Và dường như
tiến tŕnh hội nhập văn hóa của Giáo Hội đă dừng lại sau khi Giáo Hội đă
hoàn toàn chinh phục và ngự trị tại Châu Âu.
Nhưng một khi Giáo Hội đă trở thành Châu Âu với người Âu Châu th́ người Châu
Âu đă độc quyền “sở hữu"Giáo Hội, đă đồng hóa Giáo Hội với nền văn hóa của
họ, và vô t́nh ngăn chặn không cho Giáo Hội trở thành Châu Á, nghĩa là đă
không hội nhập vào các nền văn hóa này mà trái lại, đă bắt các dân tộc Châu
Á hội nhập vào các nền văn hóa Tây Phương. Tức là Kitô giáo được truyền vào
Châu Á th́ các thừa Châu Âu đă tŕnh bày Kitô giáo theo cung cách của người
Châu Âu nghĩa là dùng những ư niệm triết học Tây Phương để diễn tả. Thực sự,
có một số vị thừa sai khi truyền giáo tại Châu Á đă cố gắng và nỗ lực tŕnh
bày Kitô giáo qua đường lối hội nhập như: cha Nobili tại Ấn Độ, cha Ricci
tại Trung Hoa và cha Alexandre de Rohdes tại Việt Nam chúng ta sẽ t́m hiểu
sau. Một cách nào đó các ngài cũng theo đường hướng hội nhập văn hóa tại
Châu Âu, nhưng tiến tŕnh này bị ngăn cản bởi giáo quyền; lúc đó có lẽ v́ xa
xôi, phương tiện đi lại khó khăn và những người có thẩm quyền lại không t́m
hiểu một cách thấu đáo các tôn giáo, văn hóa và phong tục tại đây. Dẫn đến
việc không chấp nhận những phương pháp mà đáng lẽ có thể hoàn toàn thích
nghi được với năo trạng người Châu Á. Nhất là vấn đề lễ nghi tại Trung Hoa,
cũng như tại Việt Nam: việc thờ kính ông bà tổ tiên và tên Thiên Chúa, đă
làm cho Kitô giáo trở thành xa lạ, khó chấâp nhận sứ điệp Tin Mừng, tạo nên
sự nghi kỵ từ chính quyền và quần chúng nữa.
4. Phương pháp thích nghi
Của các vịthừa sai tại Châu Aù ?
Các thừa sai thuộc các cha ḍng Tên như cha M. Ricci, R. de Nobili,
Alexandre de Rohdes… tiếp nối công cuộc truyền giáo tai Bồ Đào Nha, Trung
Hoa,Việt Nam, Nhật Bản, phải nói là rất thành công trong việc làm cho dân
tộc Châu Á đón nhận Tin Mừng cách dễ dàng. Thật vậy, khi đến các vùng Châu Á
này các ngài đă phải nỗ lực t́m ra một phương pháp nào đó thích hợp với con
người ở đây, v́ các ngài ư thức hoạt động truyền giáo không phải chỉ do ḷng
sốt sắng, hăng say muốn có nhiều người theo đạo mà cần một phương pháp và
đường hướng cũng như phải quan tâm đến ḷng tin chân thành của người theo
đạo. Chính v́ điều này chúng ta cùng nhau t́m hiểu xem các ngài, nhất là cha
M. Ricci và Alexandre de Rohdes đă hoạt động như thế nào.
4.1. Phương Pháp Truyền Giáo Của Cha Ricci
Khi vào truyền giáo tại Trung Hoa, cha Ricci có vẻ là một triết gia, một nhà
vật lư, toán học và thiên văn học hơn là một nhà truyền giáo. Ngài sử dụng
thông thạo ngôn ngữ Trung Hoa, cả nói lẫn viết. Chủ trương của ngài là xâm
nhập vào hàng ngũ tri thức của đạo Nho, nên ngài dùng các sách vở loại trí
thức và những dụng cụ tối tân nhất để ḥa ḿnh với họ, trở nên như họ. V́
thế ngài ăn mặc như người bản xứ, để giao tiếp với các tín đồ Phật giáo b́nh
dân ngài bận đồ giống như các sư săi Phật giáo.
Kế hoạch truyền giáo của ngài rất qui mô, dài hạn, truyền giáo từ trên cao.
Có lẽ ngài đă rút kinh nghiệm từ việc truyền giáo ở Châu Âu. Khi vua theo
đạo th́ dân chúng tất phải theo vua tôi và nhờ đó việc truyền giáo dược dễ
dàng. Nếu giới nắm chính quyền không theo đạo hay không có cảm t́nh với đạo
th́ công cuộc truyền giáo dễ có nguy cơ bị cấm đạo và bị bách hại. V́ thế
trước tiên ngài không nhắm đến việc truyền giáo cho đại đa số quần chúng, mà
nhắm vào giới trí thức, những phần ưu tú trong xă hội, giới lănh đạo chính
trị và xă hội là các viên chức chính quyền, các Nho sĩ, Tăng ni, và nếu có
thể th́ cả hoàng đế nữa. Chắc hẳn kết quả có thể chậm lúc đầu, nhưng rấthữu
hiệu và phát triển rất mạnh về sau.
V́ thế ngài chủ trương thích nghi hết sức có thể với môi trường tri thức
Trung Hoa, với các nghi thức rất phức tạp của lễ giáo tại đây, để rao giảng
sứ điệp Tin Mừng của Thiên Chúa duy nhất và chân thật một cách tốt đẹp nhất
dưới h́nh thức dễ chấp nhận nhất đối với năo trạng của người Trung Hoa.
Để nói về Thiên Chúa bằng những ư niệm có sẵn trong dân chúng, cha Ricci
nhận ra rằng những ư niệm của Khổng giáo rất thích hợp để diễn tả sứ điệp
Kitô giáo hơn những ư niệm của Phật giáo. Vả lại dân Trung Hoa không thích
thế giới quan của của Phật giáo cho bằng của Khổng giáo, v́ dẫu sao Phật
giáo cũng là một tôn giáo ngoại lai, không có nền tảng từ Trung Hoa bằng
Khổng giáo. Giới b́nh dân khó hấp thụ được giáo lư cao siêu của Phật giáo,
nên dù theo Phật giáo dân Trung Hoa vẫn thích thần tượng Trung Hoa hơn. C̣n
Khổng giáo th́ rất cởi mở, không có tính giáo điều, đạo đức Châu Á nhân và
xă hội cũng rất siêu Việt, rất mực kính trọng cha mẹ tổ tiên và biết thờ
Trời như một Hữu Thể Tối Thượng. Đặc biệt, Khổng giáo không đưa ra những
h́nh ảnh cụ thể về thiên đàng, cũng không có các huyền thoại về các vị thần.
V́ thế Khổng giáo gần Kitô giáo hơn Phật giáo. Nên ngài nhận thấy dùng những
ư niệm Khổng giáo dễ dẫn người ta vào Kitô giáo hơn. Như thế ngài đứng trên
lập trường Khổng giáo để giải thích Kitô giáo. Nói cách khác, “các tôn giáo
không c̣n được coi là công việc của ma quỉ nữa mà là được xác nhận là môi
trường cứu độ của Thiên Chúa có Thánh Thần hoạt động”. Đây cũng là tinh thần
của Công đồng Vatican II sau này.
Vậy giai đoạn đầu của công cuộc truyền giáo, các thừa sai đă thực hiện một
bước chuẩn bị cho người nghe đón nhận Tin Mừng, tức là các thừa sai chưa đưa
người ta vào các mầu nhiệm đức tin Kitô giáo lúc đầu, nhưng giúp họ cảm nhận
được sự hợp lư và chân thực của Kitô giáo. Do đó, điều rao giảng ban đầu
phải mang tính chất triết lư hơn thần học, thần học tự nhiên hơn là thần học
mạc khải; dẫn người ta đến hơn là tŕnh bày chính đức tin đó. V́ thế, trong
sách giáo lư của cha Ricci, tên của Chúa Giêsu được nhắc đến một lần nhưng
cũng không phải là chính thức mà là t́nh cờ thôi.
Phương pháp của cha rất tiệm tiến, từng bước một. Khi người ta chấp nhận
bước đầu th́ mới tŕnh bày bước sau. Cái dễ chấp nhận họ c̣n chưa chấp nhận
th́ đưa cái khó hơn th́ làm sao thành công được. Vậy cha không muốn đưa ra
một thứ Kitô giáo mâu thuẫn hoàn toàn hay chống lại Khổng giáo hay Phật
giáo.
V́ thế, sau này có một số người dựa vào Công đồng Tridentino mà đ̣i hỏi
người ta muốn theo đạo phải đoạn tuyệt với đạo cũ của họ (Khổng, Lăo, Phật)
hoặc đốt phá các ảnh tượng của các vị thánh hiền của họ là đi ngược lại với
đường lối và phương pháp của ngài. Và công tŕnh ngài bị phá huỷ, dưới đây
chúng ta cùng nhau t́m hiểu công cuộc của ngài bị cản trở và bị phá huỷ như
thế nào ?
Chủ trương của cha như đă nói trên, nên sau khi đến Trung Hoa 20 năm số Kitô
hữu không quá một ngàn. Nhưng họ là những người hầu hết thuộc tầng lớp trí
thức hoặc có chức quyền quan trọng trong xă hội. Đây là bước thành công.
Đang khi đó một số giáo sĩ khác đến Trung Hoa như cha Niccolo Longobardi với
chủ trương ngược lại, là chủ yếu truyền giáo cho giới b́nh dân. V́ thế, giới
trí thức nhận sứ điệp từ cha Ricci, họ thấy Kitô giáo đưa ra một triết lư,
một luân lư và khoa học rất phù hợp với Khổng Giáo. C̣n quần chúng b́nh dân
nhận sứ điệp từ Cha Longobardi th́ thấy Kitô giáo đi ngược lại với Khổng
Giáo, v́ đạo này đưa ra các tín điều và những phép tắc rất xa lạ, nhất là
cấm thờ kính ông bà tổ tiên và các bậc thánh hiền của họ như Khổng Tử, Đức
Phật… Một điều khó hiểu, thậm chí không thể chấp nhận đối với năo trạng của
người Trung Hoa.
Ngay cả vấn đề danh từ chỉ Thiên Chúa, cha Ricci dùng chính những danh từ
Trung Hoa để chỉ Thiên Chúa của Kitô giáo như: Thượng Đế, Thiên. Chính Cha
sáng tạo ra từ mới “Thiên Chủ”. Nhưng khi đến thời cha Longobardi, ngài cấm
dùng những danh từ Trung Hoa để gọi Thiên Chúa hầu tránh những giải thích
sai lạc và những hiểu lầm do từ ngữ. Đồng thời ngài cho chuyển những ư niệm
thần học của Roma về Thiên Chúa sang tiếng Trung Hoa. Đi ngược lại phương
pháp của cha Ricci, sứ điệp Kitô giáo có vẻ là một sản phẩm hoàn toàn ngoại
lai của Roma và của Châu Âu.
Và cuộc tranh chấp giữa các thừa sai xảy ra, việc này đến ṭa thánh can
thiệp và ra sắc lệnh cấm thờ tổ tiên, tuy các cha Ḍng Tên đă cố gắng giải
thích và tŕnh bày; sau này có cả vua Khang Hy, hoàng đế Trung Hoa, đă gởi
thơ sang xác định rằng tại Trung Hoa, Khổng Tử chỉ được tôn kính như một vị
thầy, một minh sư, chứ không được tôn thờ như Thượng đế. C̣n việc thờ kính
tổ tiên chỉ là tưởng nhớ. Và danh từ Thiên và Thượng đế không phải dùng chỉ
bầu trời mà để chỉ Chúa tể vạn vật, nhưng thái độ thiếu thích nghi và sự t́m
hiểu cách thấu đáo vấn đề này của ṭa thánh đă trở thành một hàng rào ngăn
cản tiến tŕnh truyền giáo tại Trung Hoa. Chính thái độ này, ṭa án tối cao
của Trung Hoa lên án Kitô giáo, đ̣i trục xuất các thừa sai, cấm đạo, phá huỷ
các đền thờ và cưỡng bức dân chúng bỏ đạo. Và công tŕnh của Cha Ricci đă bị
phá huỷ, công cuôïc truyền giáo tại Trung Hoa thay đổi theo chiều hướng bất
lợi.
4.2. Tinh thần thích nghi và hội nhập văn hóa của Cha Alexandre De Rhodes
Trước khi đến Việt Nam cha Alexandre de Rhodesđă bỏ ra một năm rưỡi để học
tiếng Việt, v́cha chủ trương để có thể hội nhậpvào văn hóa và xă hội Việt
Nam cần phải biết tiếng bản xứ. Nhờ vậy, cha đă tiếp cận dễ dàng với mọi
tầng lớp xă hội, trực tiếp rao giảng Lời Chúa cho mọi người bằng tiếng mẹ đẻ
của họ, soạn thảo những cuốn sách bằng tiếng Việt. Ngài quan tâm t́m hiểu
ḷng tin nơi con người Việt Nam, và khám phá ra: tự bản chất con Rồng cháu
Tiên này đă có những tâm t́nh tôn giáo chân thật. Từ đó, ngài giúp họ nhận
ra những điều cao quí hơn. Đó là Tin Mừng của Đức Giêsu.
Tuy là một giáo sĩ của một nước văn minh tại Châu Âu, nhưng cha luôn tôn
trọng văn hóa của dân tôïc Việt Nam. Để truyền giáo cho họ một cách hiệu quả
cha chủ trương thích nghi với họ chứ không “áp đặt"một chiều.
Để ḥa ḿnh theo tập tục của người Việt, cha t́m hiểu tâm lư sở thích cùng
những phong tục, tập quán của dân Việt. Cha luôn ăn mặc như người Việt Nam:
áo thụng, quần ta, tóc dài. Cha chấp nhận cho dân chúng gọi ḿnh là thầy để
giữ khuôn khổ quân sư phụ.
Đối với danh từ để chỉ Thiên Chúa: Cha sáng chế ra một từ hoàn toàn mới và
cũng hoàn toàn nôm; khởi đầu là “đức Chúa trời đất"nhưng về sau giản lược
thành "đức Chúa trời”. Cha cố ư viết hoa chữ Chúa c̣n hai chữ kia viết
thường; nghĩa là trong cụm từ đó chữ Chúa là chính, ư muốn nói: Chúa của
trời, chứ không phải trời, tương tự như chủ nhà chứ không phải là nhà.
Ngài cố gắng đưa nghệ thuật dân gian vào tôn giáo: khi thấy người Việt Nam
thích thi ca, họ thường đối đáp nhau bằng những vần thơ sáng tác tại chỗ,
đối với người b́nh dân Việt Nam những vần thơ luôn được truyền khẩu và dễ
dàng nhớ hơn văn xuôi. Nên cha khuyến khích họ làm những bài ca vè về giáo
lư, về cuộc đời Đức Giêsu, và các thánh.
Trong phụng vụ: cha cho áp dụng lối hát ả đào, hát chèo, múa cung đ́nh vào
việc ngắm đứng, dâng hoa… Nhờ đó, sinh hoạt phụng vụ trở nên hấp dẫn, vui
tươi lôi kéo nhiều đến với Chúa.
Thấy trong các làng xă, các đ́nh làng người ta thường tổ chức các lễ hội với
những sinh hoạt vui tươi giải trí, rước kiệu. Cha cũng tổ chức các lễ hội
công giáo như những cuộc rước kiệu, rước Thánh Thể, kiệu Đức Mẹ... Và người
Kitô hữu rất thích những h́nh thức như thế. Trong các dịp lễ lớn Cha cũng
cho tổ chức những cuộc thi nhân tài như về kinh bổn, lẽ đạo, ngắm đứng, ca
hát… và giới nào theo giới đó. Nhờ vậy, nhiều người được khuyến khích học
hỏi, đào sâu giáo lư, lẽ đạo một cách sâu sắc và đầy phấn khởi. Nhất là
trong Mùa Chay và Tuần Thánh: Tuần Thánh là trung tâm điểm của phụng vụ Kitô
giáo. Để in sâu mầu nhiệm Vượt Qua này vào tâm hồn Kitô hữu Việt Nam, để
giúp họ sống mầu nhiệm này, ngài đă tổ chức nhiều h́nh thức khác nhau phù
hợp với tâm hồn người Việt Nam như: tổ chức đóng kịch về cuộc thương khó của
Đức Giêsu, tổ chức đám tang cho Chúa Giêsu. Việc khóc mướn trong các đám
tang được thay thế bằng những kinh ngắm với giọng điệu ngân nga biểu lộ t́nh
cảm bi ai, nhờ việc ngắm đứng mà sự hiểu biết và cảm thông với những đau khổ
của Đức Giêsu đi sâu vào ḷng giáo dân một cách ngọt ngào và sâu xa.
Thấy việc cử hành các bí tích đúng theo sách các phép Roma, với nhiều cử
chỉ, biểu tượng và các nghi thức biểu tượng, nhất là các mầu nhiệm chẳng có
được mấy điểm giống tam giáo đang thịnh hành tại đây, từ bí tích rửa tội đến
bí tích xức dầu bệnh nhân, chúng có những cử chỉ khác lạ với người Việt Nam,
đôi khi trái ngược với phong tục và nề nếp của dân Việt. V́ thế, Cha không
cử hành các bí tích hoàn toàn theo luật “chữ đỏ,"Cha bỏ bớt một số cử chỉ
không thích hợp hay cấm kỵ đối với người Việt.
Để tŕnh bày giáo lư của Kitô giáo, Cha cố gắng đi từ những quan niệm có sẵn
nơi người Việt Nam để dẫn người ta đến một điểm nào đó trong giáo lư Kitô
giáo như: lợi dụng tinh thần trung hiếu, Cha đưa ra một thần học tam phụ để
giới thiệu cho người Việt Nam một người Cha mà họ không biết. Đó là Cha trên
trời, Đấng sinh thành mọi sự: vũ trụ, vạn vật và con người mà Đức Giêsu gọi
Người là Cha; dùng câu “sinh kư tử quy"để giới thiệu về đời sống vĩnh cửu ở
đời sau; Ngài đi từ những thành ngữ như “quê cha đất tổ "của dân Việt để nói
về quê hương đích thật ở Trên Trời; v́ người Việt Nam đa số sống bằng nghề
nông, phải làm lụng vất vả mới đủ sống. Nên niềm hạnh phúc lớn nhất mà người
ta có thểcụ thể hóa ra là được nhàn rỗi để có thể vui vẻ bên nhau. V́ vậy
Cha đă dùng sự nhàn rỗi và vui vẻ để mô tả cảnh hạnh phúc cực lạc của thiên
đàng; và lợi dụng quan niệm về âm phủ người Việt, để nói về luyện ngục của
Kitô giáo.
Nhờ việc thích nghi của cha Alexandre de Rhodes mà Giáo hội Việt Nam trong
những thời kỳ đầu phát triển nhanh. Tuy nhiên, công việc của cha cũng gặp
những khó khăn từ một vài điểm Kitô giáo không đồng với dân Việtđược như :
cúng ông bà, thờ trời, thờ thần hoàng; và một loại xung đột về phong tục
Việt Nam nhất là về vấn đề phái tính đa thê… Bên cạnh đó các thừa sai lại có
hai khuynh hướng trái ngược nhau về vấn đề thờ kính tổ tiên. Cuối cùng,
đường lối của Cha bị một số người phảnđối và cấm cách.
II.NHẬN XÉT VÀ ĐÓNG GÓP SUY TƯ
1.Nhận Xét
Qua một số vấn đề mà chúng tôi đă nêu trong việc truyền giáo cho người Á
Châu. Quả thật là một thách đố khó khăn chứ không dễ dàng như ngiều người
vẫn nghĩ. V́ nơi đây không phải là một vùng đất hoang vu mà chúng ta có thể
đem bất cứ thứ ǵ tới gieo trồng là được. Nhưng nơi đây đă là một vùng đất
ph́ nhiêu của nhiều tôn giáo phát triển mạnh có bề dày lịch sử mà phần trên
chúng tôi đă nêu. Hơn nữa, khi Tin Mừng đến nơi này lại gây ra nhiều tranh
căi về phong tục tập quán cách gọi Thiên Chúa là Cha hay là Trời… Biết được
thực trạng như vậy, nên chúng ta lại phải có những phương pháp mới cụ thể
hơn, thiết thực gần gũi hơn với người Á Châu.
Nghĩa là chúng ta đến với họ trong tư cách một Đức Kitô nhập thể, đến với
từng nhà từng người, đến theo cách họ đón nhận, chứ không nên theo cách của
một khuôn mẫu cứng nhắc mà Giáo Hội từng mắc phải. Chúng ta là những Kitô
hữu Á Châu, chúng ta hăy đến với nhau bằng tinh thần người Á Châu, mà nhiều
nhà thừa sai đă từng làm. Có lẽ đó là cách tốt nhất mà nguyệt san Công Giáo
và dân tộc số 40 tháng 4-1998 với bài viết " giáo Hội Việt nam với thượng
hội đồng Giám Mục Á Châu" của Linh Mục Thiện Cẩm đă nhấn mạnh về ba đề mục
quan trọng mà bản góp ư của hội đồng giám mục Việt nam đă nêu là:
* "Một nền thần học và một Kitô học Á Châu". Bởi người Á Châu có một triết
lư thâm sâu mà người Tây Âu không thể lư giải bằng lờimà chỉ cảm được trong
thinh lặng huyền bí…
* "Một giáo hội học Á Châu". Nghĩa là có lối suy tư diễn tả Thiên Chúa cho
người Tây Âu th́ người Á Châucũng có cái suy tư riêng biệt của nó.
* "Một quan niệm và một phương cách truyền giáo của người Á Châu". Đă đến
lúc chúng ta phải quan niệm lại cách truyền giáo cho người Á Châu hôm nay.
V́ truyền giáo không phải đến để giảng thuyết một tín lư hay giới thiệu một
Thiên Chúa hoàn toàn xa lạ…
2. Đóng góp suy tư
Bởi vậy, Hội Thánh hôm nay không chỉ cho hay ban tặng, dù là ban tặng chính
Đức Giêsu, như vậy chúng ta chỉ xây dựng được một toà nhà trên cát, nghĩa là
chúng ta chỉ quan tâm cái tức thời thấy được trước mắt, c̣n cái nội tại sâu
xa là nền tảng cho đức tin được ươm mầm lớn lên theo thời gianth́ chúng ta
lại quên lăng. Thực vậy, Đức Giêsu là người Á Châu, Người đă được sinh ra
tại châu lục mênh mông của các tôn giáo lớn có bề dày lịch sử này, cho nên
chúng ta cũng ư thức ḿnh vốn đang ở giữa những anh em của ḿnh. Và như vậy,
truyền giáo trước hết là chia sẻ cuộc sống, tức là yêu thương mọi người, yêu
thương đến cùng (x.Ga 13,1), yêu thương đến mức chấp nhận cái chết cho người
ḿnh yêu (x. Ga 15,13). Điều này ta cũng thấy trong “ bát chánh đạo” Phật
Giáo hay Khổng giáo dạy các Phật tử của ḿnh . Nói khác đi, loan Tin Mừng là
đồng nghĩa với làm chứng cho Đức Kitô (x.lc24,47-48).
Ngược ḍng trào lưu tư tưởng nhân loại Socrate (470-399) ông tổ triết học
Tây phương, là người tin tưởng vào sự bất diệt của linh hồn, người hướng dẫn
chúng ta sử dụng lư trí cho hợp lư, ma 2Platon (427-347) học tṛ ông đă được
thừa hưởng kiến thức đó để xây dựng nên phép biện chứng cho ḿnh. Cũng chíng
Platon đă cống hiến cho chúng ta một thiên tài Aristote (384-322). Oâgn đă
xây dựng vũ trụ quan và nhân sinh quan dựa trên suy luân lư trí và cũng là
người khai sinh ra môn luận lư học. Nhũng tư tưởng lớn củatriết gia vĩ đại
này đă ảnh hưởng mạnh mẽ trên toàn hệ thống tư duy của con người trên một
ngàn năm và cũng là nền tảng cho triết học kinh viện của Thánh Thomas
Aquinas sau này (1225-1274).
Nhưng công bằng mà nói th́ hệ tư tưởng này mhờ Thiên Chúa giáo mà giữ được
địa vị độc tôn vô nhị trong một thời gian dài và đă được truyền bá rộng răi
khắp hoàn cầu. Ngược lại Thiên Chúa giáo cũng nhờ vào hệ thống suy luận mạch
lạc này thúc đẩy nền học thuật công giáo tiến bộ vượt trội hơn hẳn các thời
đại trước. Nhờ sự hỗ tương này mà nền khoa học và văn hoá Thiên Chúa giáo đă
một thời bao trùm toàn thể trời Tây. Không biết có phải do choáng ngợp bởi
hào quang đă đạt được hay tự coi ḿnh là đỉnh cáo trí tuệ loài người hay
không mà giáo hội công giáo đă tự cho ḿnh là có tiếng nói phán quyết trong
tất cả mọi vấn đề. Từ đó thiết lập toà án truy tà (Inquisition) để xử tất cả
những ai cả gan dám nghĩ khác ḿnh. Đến độ một người như Linh mục Nicolas
Cpernic (1473-1543), nhà thiên văn tài ba người Ba-lan, ông biết rơ trái đất
quay quanh mặt trời nhưng chỉ dám viết tường tŕnh và nhờ người đệ lên Giáo
Hoàng xem xét sau khi ông qua đời. C̣n Tycho Brahé (1546-1601) nhà thiên văn
người Đan mạch, năm 1601 phải sẵn sàng lên ǵan hỏa thiêu v́ thuyết nhật tâm
của ḿnh. Tuy nhiên việc gây ồn ào phức tạp nhất vẫn là trường hợp nhà bác
học Galilée (1546-1642), ông không được can đảm như Brahé và ông cũng cần
hoàn thành một số công tŕnh nghiên cứu c̣n dở dang, nên trước toà xử những
người tà giáo, ông đă phải tuyên thệ từ bỏ thuyết nhật tâm và phải tĩnh tâm
sám hối tẩy năo, nhưng khi trả lời cho mọi người ông đều xác nhận trái đất
quay quanh mặt trời thật. Trái đất vận hành trong thái dương hệ mà chúng ta
đang chứng kiến hôm nay đă quá hiển nhiên, nhưng từ trước thế kỷ 17 về trước
Giáo hội đă không cho phéo tín hữu tin như vậy.
Cũng vậy, trong bài “một nỗi tiếc khôn nguôi” của Tam Tư viết trong lịch sử
Giáo Hội công giáo đă nói lên h́nh ảnh đức Clêmentê XI (1700-1721), vào ngày
19/03/1715, đă tung ra một giải pháp quyết liệt: Tông chiếu “Ex illa die”.
Theo Tông chiếu này, Đức Thánh Cha bắt buộc phải dùng danh từ duy nhất là
“Thiên Chúa”, bỏ từ “Tiên”, từ “Thượng đế”, cấm ghi trong Thánh đường những
bảng có ghi hai từ “KÍnh Thiên”, cấm người công giáo tham dự các cuộc lễ
kính Khổng Tử, cấm người công giáo thờ kính tổ tiên theo kiểu Trung hoa, cấm
đặt bài vị trong nhà riêng…từ sự kiện này đă làm cho người giáo dân Trung
Hoa trở nên điêu đứng bởi sự trả thù của các triều đại vua Ung Chính sau đời
vua Khang Hy một Hoàng đế có thiện cảm với Kitô giáo.
Trong cuốn “bước qua ngưỡng cửa hy vọng” Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đă
xác nhận: “những hệ thống mà con người lập nên đều bất toàn, và con người
c̣n chắc chắn ḿnh bất toàn hơn nữa”,(trang 25). Vậy Giáo hội là một tổ chức
trần thế, được điều hành bởi con người, và v́ sự bất toàn của con người,
chúng ta có dám nh́n thẳng thắn chấp nhận rằng: Giáo Hội của chúng ta mà
người đại diện là Đức Giáo Hoàng không phải lúc nào cũng được Thánh Thần
linh hứng, mà có lúc c̣n phạm phải nhũng sai lầm nghiêm trọng nữa, mà lịch
sử Giáo hội đă ghi lại, như phần trên đă nêu và trừơng hợp dưới triều đại
Giáo Hoàng Grê-gô-ri-ô XII (1406-1415) thời kỳ có hai vi giáo chủ cùng một
lúc, mà cả hai cùng rút phép thông công nhau. Nếu chúng ta căn cứ vào điều
Chúa phán khi trao quyền cho Phêrô: “điều ǵ ở dưới đất con cầm buộc th́
trên trời cũng sẽ cầm buộc..”. vậy Đấng nhân hậu ngự trên trời sẽ thuận theo
ư vị nào trong hai vị kia hay cả hai đều bị cầm buộc hết!
Theo lẽ biến dịch của trời đất, th́ tư tưởng của con người cũng ngày một
tiến bộ. Vậy một Gíao Hội nhập thế cũng cần thay đổi quan niệm xưa cũ xủa
ḿnh, thoát khỏi tháp ngà luậ tlệ cổ điển, hoà nhập vào xă hội đem xă hội
loài người tiến tới lâu đài ánh sáng, mà nét văn hoá Á châu với những Cung
Đ́nh hay những ngôi Đ́nh-Chùa chắp nối nhau đan xen vào nhau và những mái
h́nh ṿm lượn cong như đang nối trời với đất. Đây là nét đặc thù mà chỉ có
vùng đất Á châu mới có. Chứ không chỉ đứng trên cao nh́n xuống cộng đồng
nhân loại ngoắc người ta lên mà phán rằng: hăy lên đây với ta, v́ đây là nơi
thánh thiện và chân lư th́ người ta sẽ ào ào lên theo.
Chúng ta biết rằng Thiên Chúa đến để cứu muôn dân chứ không dành riêng cho
một ai hay một dân tộc nào như: "Gôùc Nho này Chúa bứng từ Ai-cập, đuổi chư
dân lấy chỗ mà trồng" (Tv79) hay "Tôi nhân danh Chúa, Tôi trừ diệt chúng"
(Tv117)… Dân Do-thái đă mắc sai lầm thật lớn, họ coi ḿnh là dân riêng dân
được tuyển chọn, là thứ dân bậc nhất được ưu ái mọi sự, c̣n dân ngoại là thứ
dân không đáng được ban thưởng. Chính họ có thái độ như vậy, mà Chúa Giêsu
đă đến hướng cho họ sống đúng với ơn gọi. Chúa đă xóa bỏ bức tường ngăn cách
đóng khung ích kỷ, nhưng rồi chính Chúa cũng phải bỏ ngay dân tộc được tuyển
chọn để ra đi với dân ngoại . Vậy mà hôm nay chúng ta không những cùng Chúa
phá bỏ đi bức tường bảo thủ kỳ thị đó, lại c̣n tô đậm thêm vành đai tự tôn
cho ḿnh, để coi thường dân ngoại, một dân tộc anh em đă chịu nhiều thiệt
tḥi.
Công đồng Vaticanô II, với cái nh́n canh tân đă có những huấn thị, bản văn
như: Nostra Aetate, số 2 đoạn cuối có viết: "…. Nói cho họ biết Thiên Chúa
đang ở giữa họ …tại đây chứ không phải tại Giêrusalem hay một nơi nào khác…"
hay bản văn Instrumentum laboris có viết: "Giáo Hội là sự hiệp thông đặt
trên nền tảng sự hiệp thông của Thiên Chúa Ba Ngôi…(số 35). Hay trong bản
góp ư của Hội đồng Giám Mục Việt nam có viết: "truyền giáo không phải là
giới thiệu một Thiên Chúa, một Đức Kitô hoàn toàn xa lạ, mà là một Đức Kitô
thân thương gần gũi…" Công đồng cũng nh́n nhận rằng: "có những người vô thần
trở nên vô thần v́ những người Kitô hữu…"không hẳn là thế nhưng chúng ta
cũng cần xem lại đời sống chứng tá của chúng ta trong thế giới hôm nay.V́
nhiều khi chúng ta sống theo phong trào,rao giảng Lời cũng theo phong trào,
đó là những cái bề ngoài có vẻ thiết thực nhưng bên trong nội tại th́ không
có ǵ. Vậy có phải là những thanh la phèng phèng chăng?
Theo lời mời gọi của Đức Gioan Phao-lô II trong giáo huấn số 34 nói về mục
vụ Giáo xứ có 3 điểm cần lưu ư:
* Mục vụ cho người đă và đang biết Tin Mừng.
* Tái Phúc Âm cho người biết Tin Mừng và đă quên.
* Đến với muôn dân, đem Tin Mừng cho người chưa hay biết.
Trong ba điểm trên, theo tinh thần truyền giáo hôm nay, chúng ta đặc biệt
quan tâm điểm 3 đó là "đem Tin Mừng cho người chưa biết". Điều này cũng là
vấn đề thời sự hợp với tinh thần đối thoại liên tôn mà mấy năm qua Giáo Hội
đang làm. Đối thoại không chỉ một chiều, coi ḿnh là đúng là điểm chuẩn
buộcngười khác phải theo phải giữ. Đối thoại mà để người ta có cảm tưởng
Thiên Chúa cũng giống như thần của họ, chẳng khác ǵ ngoài tên gọi và, đối
thoại càng không phải để tranh luận hơn thua đúng sai; nhưng là để gặp gỡ là
trao đổi thảo luận kinh nghiệm sống, cộng tác với nhau làm công tác từ
thiện, làm những việc có ích cho nhân loại, hướng nhân loại đến cuộc sống
hạnh phúc bất diệt. Rồi từ đó niềm tin vào Thiên Chúa sẽ được lớn dần lên và
gương mặt khả ái của Đức Kitô sẽ được tỏ rạng nơi mọi người.
Như chúng ta biết, Đức Giêsu, Ngàicó phương pháp sư phạm thật tuyệt vời.
Giống như con người của Ngài là một hấp lực đến diệu kỳ, chỉ một lần được
gặp thôi là đủ để biến đổi cuộc đời người khác, và Ngài cũng không bao giờ
áp đặt cho ai điều ǵ, Ngài luôn tôn trọng tự do của con người. H́nh ảnh
người phụ nữ Samaria được gặp Chúa bên bờ giếng Giacóp, qua câu chuyện đối
thoại với Chúa trong ít phút, người phụ nữ ấy đă thực sự hoán cải vàtrở
thành người loan Tin Mừng cho dân làng của bà đến nỗi các môn đệ của Chúa
không hiểu nổi. (x.Ga 4,4-42). Thật như vậy bất cứ nơi đâu; thôn quê, đường
phố, trên núi, dưới băi biển Ngài đều có thể, và Ngài cũng không từ chối một
đối tượng nào từ trí thức đến thường dân, Ngài đều có cách truyền đạt phù
hợp dễ hiểu được. Ngài lấy những h́nh ảnh rất gần với cuộc sống thực tại như
chim trời, cá biển, chiên lừa, vườn nho hay những sinh hoạt trong gia đ́nh
cha mẹ với con cái… để diễn tả một cuộc sống mai sau vĩnh cửu trên Thiên
Quốc.
3. Nh́n lại công cuộc truyền giáo của giáo hội việt nam xưa và nay
Theo con số thống kê mới đây, người ta nhận thấy tỉ lệ người công giáo Việt
nam so với số dân từ năm 1933 đến nay chưa bao giờ vượt quá 8%, và đang có
chiều hướng giảm, năm 2001 là 6,5% (5,25 triệu người trong tổng số 80,75
triệu người). Nếu dân số công giáo Việt nam giảm hoặc chỉ tăngdần theo dân
số hằng năm ta có thể nói rằng việc truyền giáo chưa đạt là bao, và chúng ta
sẽ thấy tỷ lệ người công giáo Việt nam như đang giảm dần. Vậy chúng ta có
thể nói đến một sự thất bại của công cuộc loan Tin Mừng của Giáo Hội tại
Việt nam?
Đúng vậy, việc loan Tin Mừng tại Việt nam đă đến lúc chúng ta phải nh́n lại,
không phải để tự hào những ǵ đạt được hay tự ti mặc cảm v́ những khiếm
khuyết. Nhưng là để chúng ta lượng giá lại công việc đă làm trong những năm
qua. Từ Công đồng VaticanôII (1962-1963), Gíao Hội đă có những bước chuyển
nhảy vọt và điều đó đă tác động mạnh đến niềm tin của người kitô hữu thời
nay. Bằng những công việc thiết thực nhất, như dâng lễ bằng tiếng bản địa,
làm lễ quay xuống, áp dụng những luật lệ phù hợp với từng đối tượng từng
hoàn cảnh, cho phép làm bàn thờ gia tiên cùng những lễ nghi kính nhớ tổ tiên
theo từng địa phương, mà vào thời Đức InnocentêXII (1695), hay thời Đức
ClementêXI (1704) luôn coi đó là việc của tà thần và tuyệt đối cấm giáo hữu
không được làm. Mặc dù Giáo Hội đă có những cái nh́n thoáng hơn theo tinh
thần của đức Giêsu ngày càng được tỏ lo. Nhưng vẫn c̣n đó những câu hỏi,
những trăn trở của bao ngườiä về cung cách phục vụ của các vị chủ chăn cũng
như lối sống đạo của người tín hữu.
Bài viết này chúng tôi không thể đưa ra những h́nh ảnh không mấy tốt
đẹptrong Gíao Hội, v́ Giáo Hội công giáo là Gíao Hội nhập thế. Nghĩa là đi
vào đời sống của con người và sống như con người th́ cũng hkông thể tránh
khỏi những sai lầm. Nhưng không v́ vậy mà chúng ta làm ngơ trước những vấn
đề nổi cộm làm lu mờ tín lư của Chúa. Mà đ̣i hỏi mỗi chúng ta, những người
tin theo Chúa Kitô phải dấn thân và hoán cải mỗi ngày. Nếu chúng ta không
thực sự có đời sống nội tâm sâu sắc và gột rửa cái tôi hằng ngày, để công
việc loan tin của chúng ta từng ngày lớn lên với đầy đủ sức sống và có thể
tồn tại trong bất cứ một môi trường nào. Nếu không th́ sự kêu gọi hiệp nhất
của chúng ta đến bao giờ mới thành sự thật, và điều này ai cũng đang mong
đợi mà chính Chúa Giêsu hằng ngày đang phải hiến tế thay cho chúng ta, để
chúng ta hiệp nhất nên một như Thầy là cây Nho chúng ta là cành Nho (Ga
15,5).
C. KẾT LUẬN
Như vậy,trong việc loan báo Tin Mừng cứu rỗi cho muôn dân mà chúng tôi vừa
nêu ở phần trên, luôn là đề tài thời sự cập nhật hằng ngày của Hội Thánh.
Những suy tư trên không phải là bới lông t́m vết phê b́nh hay khen chê, mà
qua những ǵ làm được và chưa làm được để cùng nhau làm tốt hơn, ví mỗi
chúng ta hăy luôn tự hỏi “tôi đă làm ǵ cho Gíao Hội rồi chú không đ̣i Gíao
Hội phải làm ǵ cho tôi”.
Sứ điệp loan Tin Mừngkhông chỉ riêng của Giáo sĩ hay Tu sĩ, mà là của tất cả
mọi người tín hữu tin vào Chúa Kitô, mỗi người tín hữu phải trở nên men nên
muối cho đời. Loan Tin Mừng không đ̣i chúng ta làm được ǵ to lớn, không đ̣i
chúng ta phải có tŕnh độ siêu phàm, màḷng mến sẽ làm tất cả, như Thánh nữ
Têrêsa Hài Đồng đă sống những năm tháng âm thầm nơi ḍng kín lại trở nên nhà
truyền giáo lỗi lạc bằng lời cầu nguyện, bằng hy sinh hăm ḿnh (cúi xuống
nhặt chiếc lá rơi v́ ḷng mến cũng đủ thánh hoá một tâm hồn tội lỗi trở
về-trong Hồi kư một tâm hồn), bằng t́nh yêu Giêsu mà hằng ngày Thánh nữ đă
sống...
Như phần trên đă nêu: Loan Tin Mừng không phải là ban phát hay gảng thuyết
cho hay, mà chúng ta phải bắt chước Chúa Giêsu đă sống va,ø giới thiệu Chúa
cho mọi người như Chúa đă giới thiệu. Nghĩa là chúng ta phải sống với nhau
như những người bạn b́nh thường như mọi người, là những người đồng hương
cùng sống và làm việc. Những thái độ coi ḿnh là uyên thâm hiểu biết về một
Thiên Chúa , một vị thần mà những nguời xung quanh chưa hay biết, những kiểu
sính ngoại, đem cái văn hóa bên ngài thật xa lạ không phù hợp với nền văn
hóa Á Châu, đă đến lúc không thể áp đặt cho người dân Á Châu được nữa. Có
chăng th́ chúng ta cũng hết sức cân nhắc cho hài ḥa giữa đạo và đời giữa
Đông và Tây để có một cái chung và cái riêng của từng dân tộc mà không làm
ảnh hưởng tớicốt lơi của Tin Mừng.
Qua bài viết "vài ư nhỏ nhặt về việc truyền giáo tại Á Châu" đăng trên
nguyệt san tháng 4 của báo CG và DT số 88, tác giả Vũ Ḥa đă nêu lên nhiềulư
do khiến cho việc Kitô hóa ở Á Châu bị trở ngại, th́ ngay sau đó nguyệt san
tháng 6 của báo CG & DT số 90 của Trần Duy Nhiên đă nối tiếp suy nghĩ của
ḿnh với bài : Kitô giáo đến Á Châu qúa trễ. Thực vậy, những khám phá hay
những nh́n nhận mới mà các tác giả đă tŕnh bày, đă mở cho chúng ta một chân
trời mới bao la không bị đóng khung trong lề luật hay đúng hơn là trong
quyền bính. Nhưng rồi chúng ta phải thú nhận rằng: bức tường mà dân tộc
Do-thái dựng lên để tự hào một dân tộc được tuyển chọn, xưa kia đă bị Chúa
Giêsu phá bỏ. Ngài đă vượt qua hàng rào ngăn cách để đến với những dân tộc
anh em (dân ngoại). Nhưng rồi chúng ta lại không làm như thế, chúng ta c̣n
muốn tô đậm hơn, tự hào là người công giáo, là những người được tuyển chọn,
bất chấp dư luận để làm theo ư riêng và luôn coi đó là đẹp ḷng Thiên Chúa
làm theo ư Chúa. Có thể chúng ta sẽ mắc phải sai lầm như một số tôn giáo, cứ
luôn cho rằng đạo ḿnh là trên hết là đạo duy nhất được cứu rỗi, và những
cuộc thánh chiến chết tử v́ đạo cứ một ngày nhiều hơn. Những công việc đó
nếu chúng ta không quy chiếu về Thiên Chúa, th́ công việc chúng ta làm trở
nên vô nghĩa, là những thanh la phèng phèng (---).
Xin nêu vài h́nh ảnh minh họa trong việc truyền giáo mà nhiều người từng gặp
phải: ai đă một lần đến Cần Giờ, phía Đông-Nam Sài G̣n, một vùng đất nước
mặn phèn chua, ngoài trồng dừa nước c̣n thêm rừng đước để lấy củi, đến nay
có thay vào đó là những đồng Tôm, nhưng không phải của người dân nơi đây mà
là của những tư thương ở Sài g̣n đến, đời sống người dân nơi đây thật đói
khổ. Thế đấy mà đời sống tâm linh của họ thật cảm động, những người thân đă
khuất như không bao giờ xa họ. V́ vậy mà họ lập bàn thờ cúng bái ngay tại
nhà ḿnh hoặc là gởi vào Chùa để người thân không phải đói rét. Và một số
gia đ́nh mới nhận biết Tin Mừng dù được giải thích thế nào th́ họ vẫn chưa
bỏ được nếp sống cũ, v́ họ coi đó là sự thảo hiếu yêu thương với người đă
khuất. Hay ai ngược lên Tây Nguyên của các vùng dân tộc thiểu số sẽ gặp được
những lễ nghi tương tự như chia của cho người đă chết hay nhờ thầy cúng ma…
nếu chúng ta cứ theo suy nghĩ của ḿnh để giới thiệu Chúa cho họ theo cách
chúng ta thương làm th́ liệu một sớm một chiều họ đón nhận ngay chăng?
Bên ngoài th́ như vậy, qủa là không dễ chút nào khi đem Chúa đến cho họ
trong khi họ đă từng có đời sống thần linh thiêng liêng sâu đậm rồi. C̣n
trong Giáo hội Việt nam chúng ta th́ sao? Giữa vùng này và vùng kia, giữa
Bắc và Nam cũng có những sinh hoạt khác nhau. Ví như ngày chầu lượt thay mặt
Giáo Phận mà mỗi giáo xứ hằng năm được đại diện, nó mang đậm nét truyền
thống lễ hội của dân tộc, những cuộc rước kiệu Thánh Thể hay bất cứ cuộc
rước kiệu nào trong phụng vụ cũng đều rút ra từ những sinh hoạt của dân tộc,
thật là sinh động gần gũi dễ đi sâu vào ḷng người, mà một số nhà thừa sai
đă thích ứng ngay từ những ngày đầu truyền giáo. Những điều tinh tuư trong
phụng vụ đă được đan xen giữa đạo và đời để người tín hữu trí thức hay
thường dân cũng có thể hiểu và dễ dàng cảm nhận được một Thiên Chúa t́nh
yêu. Nhưng tiếc thay nhiều người làm công việc ấy lại không hiểu ḿnh đang
làm ǵ v́ không được hướng dẫn hay giải thích ư nghĩa, mà chỉ lo sao cho
thật linh đ́nh trang trọng bên ngoài; thậât nhiều kiệu hoa thật nhiều cổng
chào, xứ ḿnh phải làm to hơn xứ kia, mời thật nhiều Cha, nhiều ân nhân về
dự cho hănh diện, đến mức cản trở giao thông hoặc phải chặt phá cây cối đang
thu trái, những cây ấy phải mất nhiều năm chăm sóc mới có. Rồi chiêng trống
gơ cho thật to ồn ào cả một vùng trời, làm ảnh hưởng đến sinh hoạt người dân
trong vùng…c̣n những người không làm hay không có thói quen th́ cho rằng
đồng bóng sai lạc với Tin Mừng…mà điều cần thiết cho gương mặt nhân hậu của
Chúa được tỏ hiện qua những lễ nghi ấy, chúng ta lại lăng quên. Vậy điều ǵ
là cần theo tinh thần của Chúa Giên su đă từng sống và đă làm mẫu trước cho
chúng ta? Có phải là cái tôi ích kỷ đang hối thúc chúng ta làm theo?
Để kết thúc bài viết này, chúng tôi cũng không mong ǵ hơn như những ư nghĩ
và nội dung của những bài viết "vài ư nhỏ nhặt trong việc truyền giáo ở Á
Châu" của tác giả Vũ Ḥa (nguyệt san CG & DT số 88, tác giả Vũ Hoà) hay "một
nỗi tiếc khôn nguôi" ( lịch sử GHCG của Tam Tư ) hay "Giáo Hội tại Á Châu:
giáo hội của giáo dân – một Đức Kitô cho Á Châu" của Trần Duy Nhiên đă đăng
trên nguyệt san CG và DT các (số 86 tháng /2002 & số 90 tháng 6/2002) vv.
Đấy là những suy tư cũng như những đóng góp cho công cuộc truyền giáo ở châu
lục này và, những ư kiến ấy như đang nối dài tinh thần của Công đồng
Vaticanô II cũng như ḷng mong mỏi của Đức Gio-an Phao-lô II trong Ecclesia
in Asia và của toàn thể dân Chúa. Chúng ta cần thay đổi từ bên trong lẫn bên
ngoài. Giáo hội là của mọi người, ơn cứu độ làcủa mọi người cho mọi người.
Đến lúc chúng phải bỏ bớt những cồng kềnh của luật lệ và quyền bính, của cái
tôi đóng khung ích kỷ để thay vào đó là yêu thương là phục vụ là cho đi và
nhận lănh, là bước xuống ḍng nước thanh tẩy của tôn giáo Á Châu, và đi
xuyên qua thương khó của cái nghèo Á Châu, mà chính Chúa Giêsu, Ngài đă chấp
nhận cái nghèo hèn cái bần cùng nơi gia đ́nh Nazareth. Để Tin Nừng không bị
ràng buộc vào bất cứ một nền văn hóa hay áp lực chính trị nào, kể cả văn hóa
Do-thái. Bởi qua cái chết và phục sinh của Chúa đă nói lên sự tự hạ đến quên
ḿnh của Chúa Kitô, và ngôi mộ trống, một cái không, một cái trống rỗng
nhưng chứa đựng cả một chân lư tuyệt vời. Thánh Phao-lô trong khi loan Tin
Mừng, để lời Chúa không bị ràng buộc bởi những hiểu lầm nên Ngài đă làm nghề
dệt vải lấy tiền nuôi thân, (x.Tx 2,9; 1Cr9,4-12…). Cũng vậy, chúng ta hăy
lên đường theo tinh thần của Chúa, những người nhận 5 nén, 3 nén
(x.Mt25,14-30), hay h́nh ảnh người Samaritanô nhân hậu (x. Lc10,29-37) là
bài học vô giá cho chúng ta. Đây là công việc thiết thực nhất không có tính
trừu tượng, khi Chúa trả lời “ hăy về và làm như vậy” đă làm cho một sốKinh
sư, Biệt phái là những người luôn tự hào cho ḿnh là thánh thiện những bậc
vị vọng đáng kính phải hổ ngươi trước đám dân chúng, v́ họ đă không làm được
như vậy. Và h́nh ảnh những người Do-thái bắt được một phụ nử ngoại t́nh cứ
theo luật là phải ném đá đến chết cũng phải im lặng lần lượt cúi đầu tháo
lui, từ cao niên đến rốt hết,chỉ v́ một câu trả lời của Chúa “ai trong các
ngươi sạch tội th́ ném đá chị này trước đi”(x.Gă,2-11).
Trước mắt vẫn c̣n đó những khó khăn, không những khác nhau về văn hoá Đông
và Tây mà c̣n là lối sống thực dụng theo trào lưu xă hội đang ngày một ăn
ṃn tâm hồn con người, tạo cho con người theo thuyết chủ nghĩa cá nhân không
c̣n phải liên hệ với một ai, và một khi người ta đă quen lối sống như vậy
th́ việc dấn thân cho đi quả là không dễ chút nào. Nhưng chúng ta hy vọng
bằng t́nh yêu vô vị lợi mà Chúa đă từng làm, từng sống, và mỗi chúng ta sẽ
làm theo Chúa “yêu thương và phục vụ” như Chúa th́ một ngày không xa, miền
đất Á châu này sẽ bừng lên một mùa gặt bội thu mà Đức Gioan Phaolô II cũng
như các nhà truyền giáo đang mong đợi.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1- Lm. Đào Trung Hiệu, Cuộc Lữ Hành Đức Tin, 1994.
2- Lm. Bùi Đức Sinh, Giáo Hội Công Giáo Việt Nam, 1995.
3- Trần Ngọc Thêm, T́m Về Bản Sắc Văn Hóa Việt Nam, Nxb Tp. HCM, 1- 1997.
4- Hội Đồng Chủ Tịch Đại Năm Thánh 2000, Đức Giêsu Kitô, Đấng Cứu Độ Duy
Nhất Của Trần Gian Hôm Qua Hôm Nay Và Măi Măi, 1996.
5- Lm. Nguyễn Ngọc Sơn, Người Mục Tử Hướng Về Tương Lai, Nxb Tp. HCM, 1996.
6- GM. Bùi Tuần, Hành Tŕnh Phục Sinh, NXB TP. HCM, 1998.
7- Lm. Thiện Cẩm, Giáo Hội Trước Thềm Thiên Niên Kỷ Mới, 1999.
8- Lm. Thiện Cẩm, Tiếng Hát Mỗi Ḍng Sông, 1999.
9- Nguyễn Chính Kết, Ngôn Sứ Thời Đại Mới, Nxb Tp. HCM, 2000.
10- Nguyễn Chính Kết, Thích Ưùng Và Hội Nhập Văn Hóa Trong Tôn Giáo, Nxb Tp.
HCM 1998.
11- Đường Thi, Thiên Chúa Và Tam Giáo, Tủ Sách Đàm Đạo Kitô Giáo.
12- Đức Giêsu Đấng Cứu Độ Trần Gian, Giáo Tŕnh Kitô Học, 1999.
13- ĐGH. Gioan Phaolô II, Sứ Vụ Đấng Cứu ĐoÄ, 1991.
14- ĐGH. Gioan Phaolô II, Tuyên Ngôn Dominus Jesus, 1999.
15- ĐHG. Phaolô VI, Tông Huấn Laon Báo Tin Mừng.
16- ĐGH. Gioan Phaolô II, Tông Khuyến Thư Hậu Thượng Hội Đồng Giáo Hội Tại
Aù Châu, 1999.
17- Lm Linh Tiến Khải, T́m Hiểu Thư Phaolô, Veritas.
18- Michael Amaladoss, SJ, Bên Kia Hội Nhập Văn Hóa Nhiều Văn Hóa Thành Một
Được Chăng ?2000.
19- Lm. Phan tấn thành, Về Nguồn, Rôma, 1997.
20- Antôn Trần Minh Hiển, Tôn Giáo Học, Lưu Hành Nội Bộ, 1998.
21- Angelo Amato, Đức Giêsu, Trung Tâm Lịch Sử Cứu Độ Và Đời Sống Giáo Hội,
1998.
22- Suy Tư Và Đóng Góp Cho Thần Học Việt Nam, 2000.
23- Đức Kitô Đấng Cứu Độ Duy Nhất Của Con Người, tài liệu năm thánh 2000.
24- Chia Sẽ Liên Tu Sĩ, SỐ 10, 21, 27, 29, 31.
25- Nguyệt san Công giáo và Dân tộc, số 3 tháng 3/1995.số 40 thág 4/1998. Số
86 tháng 2/2002. Số 88 tháng 4/2002. Số 90 tháng 6/2002.
26- Báo Công Giáo Và Dân Tộc, các số 1241, 1249, 1264, 1288.
27- Nữ Tu Phạm Thị Bích Hằng, Vấn Đề Thờ Kính Tổ Tiên Trong Nền Văn Hóa Việt
Nam, 2000.
28- Trung Tâm Nghiên Cứu Tâm Lư Dân Tộc, Tâm Lư Người Việt Nam Nh́n Từ Nhiều
Góc Độ, Nxb Tp. HCM, 2000.
29- Ṭa Giám Mục Huế, Tọa Đàm Về Một Số Vấn Đề Văn Hóa Công Giáo Việt Nam,
2000.
30- Bản Đề Cương Của Thượng Hội Đống Giám Mục, Đức Giêsu Đấng Cứu Độ, 1999